Xây dựng phương án quản lý hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon tại Việt Nam
Theo Phó Cục trưởng Cục biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Nguyễn Tuấn Quang, ở quy mô quốc tế, đến nay các vấn đề liên quan tới cách thức quản lý, giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tín chỉ carbon liên tục được cập nhật. Hiện đã có 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới áp dụng định giá carbon (bao gồm thuế carbon và thị trường carbon), giúp kiểm soát khoảng 11 tỷ tấn carbon, tương đương khoảng 20% phát thải toàn cầu.
Xây dựng phương án quản lý hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon tại Việt Nam |
Đây là xu thế tất yếu và Việt Nam cũng đang chuẩn bị cho việc thiết lập thị trường carbon trong nước.
Theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, thị trường carbon Việt Nam bao gồm hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon.
Tương tự các thị trường tuân thủ nội địa trên thế giới, Chính phủ phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho các doanh nghiệp/cơ sở và cho phép mua, bán hạn ngạch theo nhu cầu.
Hàng hóa chính tham gia thị trường là “hạn ngạch phát thải khí nhà kính” do các doanh nghiệp/cơ sở được phân bổ hạn ngạch trao đổi với nhau.
Tháng 6/2025, Việt Nam sẽ bắt đầu phân bổ hạn ngạch và triển khai thí điểm Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS).
Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ tổ chức và quản lý các hoạt động trao đổi, thu hồi, nộp trả, vay mượn hạn ngạch. Vì vậy cần phải có phương án thiết kế và quản lý hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của Việt Nam.
Trong giai đoạn từ nay đến tháng 6/2025 - trước thời điểm phân bổ hạn ngạch, Văn phòng Dịch vụ Dự án Liên hợp quốc (UNOPS) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) triển khai đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam.
Đây là hỗ trợ kỹ thuật do UNOPS tài trợ trong khuôn khổ Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP).
Hỗ trợ kỹ thuật này cung cấp tư vấn chuyên môn sâu từ các chuyên gia trong nước và quốc tế, các khuyến nghị dựa trên bằng chứng rõ ràng giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra thiết kế phù hợp với thị trường trong nước, hài hòa với các quy định pháp luật hiện hành.
Hỗ trợ kỹ thuật cũng sẽ phân tích khung pháp lý của Việt Nam và xem xét kinh nghiệm quốc tế để xác định các phương án thiết kế và quản lý đối với việc xây dựng Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính, tập trung vào các phương án khả thi cho vận hành thí điểm thị trường carbon giai đoạn 2025-2027.
Nhóm tư vấn sẽ đánh giá và mô hình hóa tác động của các phương án quản lý Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính tại Việt Nam, bao gồm việc phân tích các tác động cụ thể về kinh tế-xã hội và môi trường của những phương án này, đặc biệt là tác động đối với các ngành tiêu thụ nhiều năng lượng.
Đồng thời, đánh giá và mô hình hóa các tác động kinh tế-xã hội và môi trường của việc giao dịch tín chỉ carbon và các kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của Việt Nam ra quốc tế.
Trên cơ sở này, nhóm tư vấn cung cấp các khuyến nghị, nhằm xác định các phương án quản lý tối ưu đối với tín chỉ carbon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính.
Thành viên nhóm tư vấn, Tiến sỹ Robert Ritz (Đại học Cambridge) cho rằng Việt Nam đang chuẩn bị triển khai thị trường carbon, các nhà quản lý cần cân nhắc đến việc giảm gánh nặng đối với nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Với nhà sản xuất, khi hệ thống phân bổ hạn ngạch mới vận hành, cần có thời gian làm quen với hệ thống quản lý môi trường mới này, thúc đẩy giảm phát thải trở thành một trong những yếu tố cạnh tranh công bằng.
Nhấn mạnh những điểm chính cần lưu ý khi xác định phương án quản lý giao dịch tín chỉ carbon quốc tế, ông Frederic Ggnon-Lebrun, chuyên gia tư vấn cho rằng, Chính phủ cần cân nhắc mức độ chắc chắn đạt được mục tiêu giảm phát thải theo Đóng góp quốc gia tự quyết định, mức độ thu hút đầu tư quốc tế và vai trò của các khoản thu theo Điều 6 Thỏa thuận Paris cho việc giảm nhẹ trong nước.
Cùng với minh bạch trong cơ chế quản lý, cần đơn giản hóa các quy tắc và yêu cầu để thuận tiện cho công tác quản lý và giúp các bên tham gia thị trường dễ dàng thiết lập mô hình tài chính./.