Cơ hội để doanh nghiệp tham gia vào nền kinh tế xanh
Cơ hội để doanh nghiệp tham gia vào nền kinh tế xanh |
"Thị trường carbon là hàng hóa không thể sờ, nắm nhưng nó là sản phẩm có giá trị và tiềm năng lớn về cơ hội đầu tư, kinh doanh nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam khi chưa sẵn sàng".
Nhận diện cơ hội và thách thức
Từ đánh giá phát thải của 2.166 cơ sở theo lĩnh vực sản xuất, theo đại diện Công ty Cổ phần tư vấn Năng lượng và Môi trường, hai lĩnh vực đứng đầu là nhiệt điện (chiếm 32%) và xi măng (25%), tiếp đến là sắt thép (18%); nhựa và cao su (5%); vật liệu xây dựng (3%)…
Tuy vậy, một tín hiệu tích cực trong kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính của các doanh nghiệp khảo sát cho thấy, có 57,38% đang chuẩn bị xây dựng và 27,85% đã có kế hoạch trong khi chỉ có 14,77% chưa có kế hoạch.
Ông Vũ Mạnh Thắng, Ban Năng lượng, Tập đoàn Trường Thành Việt Nam (đơn vị kinh doanh hai lĩnh vực cốt lõi là năng lượng và bất động sản) cho biết đáp ứng xu thế phát triển bền vững và giảm phát thải carbon thông qua năng lượng hydrogen, doanh nghiệp đang tiến hành xây dựng dự án điện khí LNG tại Thái Bình với công suất 1.500 MW.
Tuy nhiên, trong quá trình tham gia thị trường carbon tại Việt Nam, theo ông Thắng, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và vướng mắc trên nhiều khía cạnh, trong đó có thủ tục hành chính.
Cụ thể, vấn đề đăng ký hạn ngạch phát thải, báo cáo lượng phát thải và tham gia vào thị trường carbon còn đòi hỏi nhiều thủ tục và giấy tờ. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan còn chưa đồng bộ khiến cho doanh nghiệp phải liên hệ với nhiều cơ quan khác nhau, gây ra sự chậm trễ và khó khăn trong quá trình hoàn thiện thủ tục.
Ngoài ra, về tài chính, chi phí đầu tư cho công nghệ giảm phát thải cao. Trong khi các công nghệ giảm phát thải, như năng lượng tái tạo, hệ thống lọc khí thải, thiết bị tiết kiệm năng lượng, đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện. Bên cạnh đó, dù có một số chương trình hỗ trợ tài chính từ Chính phủ và tổ chức quốc tế, nhưng việc tiếp cận các nguồn vốn này không dễ dàng do thủ tục phức tạp và yêu cầu cao.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp còn sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu hao năng lượng lớn và phát thải nhiều khí nhà kính; thiếu hụt nguồn nhân lực chuyên môn là một trong những thách thức của doanh nghiệp năng lượng, như thiếu chuyên gia về thị trường carbon và quản lý phát thải. “Điều này làm giảm khả năng của doanh nghiệp trong việc xây dựng chiến lược và thực hiện các biện pháp giảm phát thải,” ông Thắng nói.
Từ những vấn đề trên, ông Vũ Mạnh Thắng kiến nghị Chính phủ cần ban hành các quy định cụ thể, minh bạch và đơn giản hoá thủ tục hành chính. Theo đó, cần đảm bảo các quy định pháp luật liên quan đến thị trường phát thải carbon được xây dựng một cách minh bạch, nhất quán và dễ hiểu, tránh tình trạng chồng chéo hoặc mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật; cần xây dựng cơ chế hỗ trợ tài chính, quỹ môi trường; khuyến khích đầu tư từ các tổ chức quốc tế.
Ngoài ra, áp dụng các chính sách miễn giảm thuế, ưu đãi tài chính cho các doanh nghiệp tham gia tích cực vào việc giảm phát thải khí nhà kính và sử dụng năng lượng tái tạo.
"Các doanh nghiệp cần đánh giá và nâng cấp các thiết bị, dây chuyền sản xuất để tăng hiệu quả năng lượng, giảm tiêu hao nguyên liệu và phát thải. Tiếp cận và áp dụng các công nghệ mới như năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió, sinh khối, công nghệ lưu trữ năng lượng, giúp giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch...," ông Thắng khuyến nghị.
Chuyển đổi để nâng sức cạnh tranh
Việc tham gia vào thị trường carbon không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp năng lượng. Thông qua việc tối ưu hóa quy trình sản xuất, đầu tư vào công nghệ sạch và năng lượng tái tạo, doanh nghiệp có thể giảm thiểu chi phí liên quan đến phát thải, nâng cao uy tín thương hiệu và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Theo lộ trình phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, từ nay đến hết năm 2027 sẽ xây dựng quy định quản lý các hoạt động liên quan đến tín chỉ carbon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính; triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các linh vực tiềm năng và từ năm 2028 tổ chức vận hành cũng như quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường khu vực và thế giới.
Trong các chương trình, kế hoạch, Bộ Công Thương cũng đã đưa ra các mục tiêu, giải pháp cụ thể gắn liền với nhiệm vụ chung của ngành, đồng thời, tiếp tục rà soát, xây dựng các văn bản pháp luật, các quy định, tiêu chuẩn; tổ chức các hội thảo quán triệt, nâng cao nhận thức, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện… đẩy mạnh công tác truyền thông.
Đặc biệt, đối với giảm phát thải khí nhà kính, quản lý tín chỉ carbon, Bộ Công Thương đã đưa ra nhiều nhiệm vụ cùng các nhóm giải pháp thực hiện, trong đó Bộ đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu cho cấp có thẩm quyền quyết định việc tổ chức đàm phán, ký kết, triển khai thỏa thuận hoặc hợp đồng với các đối tác quốc tế về chuyển nhượng tín chỉ carbon, kết quả giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của ngành Công Thương phù hợp với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của quốc gia.
Nhằm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, ngày 30/9/2024, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã ký Quyết định số 2600/QĐ-BCT ban hành Kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng và quá trình công nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương đến năm 2025 và giai đoạn 2026-2030.
Ông Hoàng Văn Tâm, Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững (Bộ Công Thương) cho rằng mục tiêu tổng quát của kế hoạch này nhằm giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng và quá trình công nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương thực hiện mục tiêu phát thải khí nhà kính theo đóng góp do quốc gia tự quyết định của Việt Nam và Kế hoạch hành động giảm phát thải khí metan đến năm 2030, góp phần hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Trong đó, mục tiêu cụ thể đến năm 2025 bằng nguồn lực trong nước giảm ít nhất 8,2% phát thải khí nhà kính so với kịch bản thông thường (BAU - Business as usual), tương ứng với 36,2 triệu tấn CO2 (tương đương CO2tđ) trong lĩnh vực năng lượng và quá trình công nghiệp. Khi có hỗ trợ của quốc tế thì giảm ít nhất 36,4% phát thải khí nhà kính với kịch bản phát triển thông thường, tương ứng với 160,5 triệu tấn CO2tđ trong lĩnh vực năng lượng và quá trình công nghiệp.
Mục tiêu đến năm 2030, bằng nguồn lực trong nước giảm ít nhất 9,0% phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường, tương ứng với 55,5% triệu tấn CO2tđ trong lĩnh vực năng lượng và quá trình công nghiệp. Khi có hỗ trợ thêm của quốc tế giảm khoảng 34,8% phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường, tương ứng với 213,7 triệu tấn Co2tđ trong lĩnh vực năng lượng và quá trình công nghiệp.
Với yêu cầu đặt ra, các chuyên gia cho rằng khi thị trường carbon được triển khai tại Việt Nam sẽ mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong việc giảm phát thải khí nhà kính và tham gia vào nền kinh tế xanh./.