Cần một chiến lược chuyển đổi xanh quốc gia mang tính tổng thể
Bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV, thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ) cho biết Ban này vừa có báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ đánh giá về mức độ sẵn sàng và khó khăn trong chuyển đổi xanh của doanh nghiệp Việt Nam.
Kết quả báo cáo cho thấy, chuyển đổi xanh đang trở thành “một cuộc đua” ở cấp độ toàn cầu. Các quốc gia lớn đã và đang dành nhiều nguồn lực và thiết kế nhiều khuôn khổ pháp lý lẫn thực tiễn để thúc đẩy chuyển đổi xanh tại quốc gia cũng như tạo tác động tới các quốc gia khác.
Vì vậy, Việt Nam cần tham gia với quyết tâm và nỗ lực tương xứng với cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tại COP26, COP27 để khẳng định sự tiên phong của quốc gia cũng như tranh thủ một cách hiệu quả các nguồn lực quốc tế trong bối cảnh chuyển đổi xanh.
Chuyển đổi xanh không đơn thuần là một số chính sách đơn lẻ mà gồm hệ thống các chính sách cùng thiết kế chương trình thực thi chính sách để chuyển đổi từ đầu tư, thương mại, phát triển các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy các sáng kiến xanh… đến các hoạt động giảm phát thải trong thực tế.
Do đó, Việt Nam cần xây dựng và vận hành chiến lược, chương trình chuyển đổi xanh quốc gia mang tính tổng thể, do Chính phủ chỉ đạo, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa khu vực nhà nước với doanh nghiệp, người dân, với trách nhiệm, thời gian biểu, chỉ tiêu, biện pháp, cách thức đo đếm hiệu quả/giám sát kết quả cụ thể.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng các thị trường lớn của Việt Nam đều đang đẩy mạnh thực thi cam kết Net-Zero, do đó, nhiều chính sách mới đã ban hành, dự kiến ban hành đều hướng đến tạo dựng các hàng rào kỹ thuật về phát triển xanh, bền vững, giảm phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp Việt Nam chưa cao.
Chuyển Đổi Số, Chuyển Đổi Xanh Hướng Tới Phát Triển Bền Vững |
Theo kết quả khảo sát, có 48,7% doanh nghiệp đánh giá rằng giảm phát thải, chuyển đổi xanh là cần thiết/rất cần thiết, trong đó 16,9% đánh giá là rất cần thiết. Song, vẫn có 17,4% đánh giá là không cần thiết/rất không cần thiết và 33,9% đánh giá tính cần thiết của việc chuyển đổi này chỉ ở mức độ bình thường.
Điều đáng ngạc nhiên là không có nhiều sự khác biệt trong đánh giá mức độ cần thiết phải giảm phát thải, chuyển đổi xanh giữa các doanh nghiệp chỉ hoạt động nội địa, doanh nghiệp xuất khẩu.
Doanh nghiệp có doanh thu càng lớn thì đánh giá mức độ cần thiết càng cao.
Liên quan đến mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp trong hoạt động giảm phát thải, chuyển đổi xanh, có đến 64% doanh nghiệp được khảo sát “chưa chuẩn bị gì.”
Kết quả khảo sát cũng cho thấy doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong chuyển đổi xanh, từ thông tin, nguồn vốn, nhân sự có chuyên môn… Trong đó, ba khó khăn lớn nhất các doanh nghiệp đối mặt là nguồn vốn để thực hiện giảm phát thải, chuyển đổi xanh; nhân sự có chuyên môn về giảm phát thải, chuyển đổi xanh; các giải pháp kỹ thuật cụ thể, phù hợp.
Chuyển đổi xanh đòi hỏi nhu cầu về vốn lớn đối với Việt Nam trong cả 3 khu vực. Theo ước tính của World Bank năm 2022, nhu cầu tài chính tăng thêm để Việt Nam xây dựng khả năng chống chịu và giảm phát thải nhà kính giai đoạn 2022-2040 lên đến 368 tỷ USD, trong đó thích ứng chiếm 4,7% GDP mỗi năm và khử carbon chiếm 2,1%.
Trong số này, nguồn tài chính đến từ khu vực tư nhân chiếm gần 50% với 184 tỷ USD, các nguồn từ khu vực công là 130 tỷ USD, cùng với đó là nguồn tài chính hỗ trợ từ bên ngoài.
Kết quả khảo sát cho thấy nguồn vốn là khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp gặp phải trong quá trình giảm phát thải, chuyển đổi xanh. 50% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng họ gặp phải khó khăn về vốn và chỉ có 5,9% cho rằng không có khó khăn gì về vốn.
Đây là một vấn đề cần sự quan tâm đặc biệt vì trong khi doanh nghiệp rất cần vốn cho giảm phát thải, chuyển đổi xanh để đón đầu các cơ hội thì tài chính xanh chưa phát triển tương ứng.
Sau hơn 10 năm, tài chính xanh được triển khai ở Việt Nam nhưng quy mô vẫn nhỏ, tín dụng xanh chỉ chiếm 4.5% tổng dư nợ (số liệu từ Ngân hàng Nhà nước tính tới hết năm 2023), trong khi trái phiếu xanh còn rất ít.
Việc triển khai tín dụng xanh còn nhiều vướng mắc như chưa có khung pháp lý, chính sách tổng thể trong khi các nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng thường là vốn huy động ngắn, trung hạn và bên vay đòi hỏi lãi suất ưu đãi.
Với trái phiếu xanh, còn thiếu các hướng dẫn chi tiết của các cơ quan chức năng (thông tin, tiêu chí về dự án xanh); cơ chế quản lý, giám sát việc sử dụng nguồn vốn; khung pháp lý…