Đến năm 2050, hàng trăm đô thị có nguy cơ “chết khô”
SK&MT - Thành phố Cape Town của Nam Phi, một trong những điểm đến du lịch mang tính biểu tượng của thế giới, đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt nước vào tháng 4/2018. Nếu như điều này xảy ra, Cape Town sẽ là thành phố đầu tiên trên thế giới cạn kiệt nước.
Hiện nay, hồ chứa nước ngọt Theewaterskloof, nguồn cung cấp chính của thành phố đã cạn kiệt, chỉ còn 13% lượng nước dự trữ, và sau đó sẽ là tình trạng khô cháy.Ở mực nước chết này, các hệ thống ống cung cấp nước đều không thể hoạt động.
Điều gì sẽ xảy ra nếu Cape Town không còn nước sinh hoạt?
Để trả lời câu hỏi này, Greg Pillayngười đứng đầu cơ quan kiểm soát thảm họa Nam Phi đang soạn thảo một kế hoạch ứng phó nhưng hy vọng sẽ không bao giờ mang nó ra thực hiện. Cơ quan kiểm soát thảm họa Nam Phi cho biết, đã xác định 4 nguy cơ đối với Nam Phi hiện nay bao gồm thiếu nước ngọt, điều kiện vệ sinh yếu kém, bệnh tật bùng phát và hỗn loạn xã hội do thiếu hụt nguồn tài nguyên.Trong đó, kịch bản "không còn nước" là điều không mong muốn nhất. Đây là một thảm họa điển hình của ảnh hưởng biến đổi khí hậu toàn cầu.
Cape Town là thành phố du lịch nổi tiếng nhất của Nam Phi, là điểm đến ưa chuộng của du khách khắp thế giới. Nhưng thành phố này có nhược điểm đáng ngại là vị trí địa lý nằm sát biển Nam Đại Tây Dương, khan hiếm nguồn nước ngọt, phải đắp đập ngăn sông để tạo thành hồ chứa nước ngọt Theewaterskloof. Hồ chứa nhân tạo khổng lồ nằm trong lưu vực sông Sonderend, được ngăn thành bởi 6 con đập (có cửa đóng xả), có tổng diện tích 500 kilômét vuông, có sức chứa tổng cộng khoảng 480 triệu mét khối nước.
Nếu thời tiết có mưa đầy đủ, hồ đủ cung cấp nước cho nhu cầu sử dụng vừa sinh hoạt vừa tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp của thành phố Cape Town.
Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, tình hình cung cấp nước bổ sung cho hồ Theewaterskloof có dấu hiệu sụt giảm, làm nảy sinh nguy cơ thiếu nước ngọt sinh hoạt. Cuộc khủng hoảng hiện tại được giới chuyên gia môi trường cho là do ảnh hưởng của đợt hạn hán nghiêm trọng nhất trong gần 400 năm qua làm cho lượng nước trong hồ chứa Theewaterskloof bốc hơi nhanh hơn bình thường.
Đi kèm theo đó là sự sụt giảm lượng mưa kéo dài liên tục trong khoảng 3 - 4 năm gần đây khiến cho lượng nước cung cấp cho hồ chứa Theewaterskloof giảm. Một nguyên nhân nữa cũng được các chuyên gia đưa ra phân tích là tốc độ gia tăng dân số từ 2,4 triệu lên 4,3 triệu người trong giai đoạn 1995-2015, nhanh hơn mức tăng dự trữ nước chỉ 15% trong cùng thời gian.
Một phương án giải nguy khi hệ thống nước máy không còn hoạt động là thành phố Cape Town sẽ thiết lập 200 điểm phân phát nước sinh hoạt khắp thành phố, với định mức mỗi người chỉ được nhận 25 lít nước mỗi ngày để sử dụng cho tất cả mọi sinh hoạt. Để thực hiện chương trình cấp nước miễn phí này, chính quyền thành phố sẽ phải chi ra đến 17 triệu USD mỗi ngày, đồng thời thất thu khoản tiền cấp nước tương đương 117 triệu USD.
Trong cơn khát nước ngọt, người ta đã làm đủ cách để có được nước sử dụng. Tại các siêu thị, cửa hàng, nước đóng chai được bán có định mức cho mỗi người nhằm đảm bảo mọi người đều có thể mua được nước.
Trong các khách sạn, du khách không còn có thể tha hồ ngâm mình tắm trong bồn nữa mà buộc phải sử dụng vòi sen với lượng nước chảy hạn chế. Chỉ những hộ gia đình giàu có, khá giả mới có điều kiện khoan giếng lấy nước ngầm sử dụng, còn người dân nghèo thì phải đến các điểm phân phát nước miễn phí của chính quyền để nhận nước miễn phí.
Nhưng ngay cả việc khoan giếng cũng có giới hạn, bởi mực nước ngầm cũng không đủ để đáp ứng số lượng giếng khoan quá nhiều, cộng với tình hình hạn hán đang diễn ra. Trong cơn khát khô cằn, người ta còn tận dụng cả những giọt sương sớm, vì thế loại thiết bị có tên gọi là "lưới lọc hơi nước" dùng để hứng lấy hơi nước trong không khí cũng đang "cháy hàng".
Các chuyên gia môi trường cảnh báo, khủng hoảng nước tại Cape Town không nên được xem chỉ là một hiện tượng hay "sự cố" nhất thời, mà chúng ta cần phải nhìn nhận dưới góc độ thảm họa môi trường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Đây đồng thời cũng là một bài học về ý thức của con người trong cách sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên nước.
Nhưng Cape Town không phải là trương hợp cá biệt. Rất nhiều đô thị trên thế giới đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng nguồn nước.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học trường đại học Kassel (Đức), 416 trong số 1.482 thành phố, tức chiếm khoảng hơn một phần tư (27%) số thành phố trên địa cầu, sẽ không còn khả năng cung cấp nước cho 233 triệu dân của mình. Thành phố Cape Town nằm trong số những thành phố đầu tiên bị khô hạn.
Các nhà khoa học liệt kê 10 thành phố có nguy cơ bị đe dọa nhiều nhất theo thứ tự cấp bách: Los Angeles (Mỹ), Jaipur (Ấn Độ), Dar es Salaam (Tanzania), Đại Liên (Trung Quốc), San Diego (Mỹ), Karachi (Pakistan), Harbin (Trung Quốc), Phoenix (Mỹ), Porto Alegre (Brazil) và Monterrey (Mexico).
Vẫn theo các nhà khoa học Đức, tình trạng khan hiếm nước nghiêm trọng có nguy cơ dẫn đến các xung đột với giới nhà nông tại khoảng 100 thành phố khác. Nguồn nước dự trữ trên bề mặt, nguồn cung cấp nước duy nhất sẽ không đủ để đáp ứng cùng lúc các nhu cầu của cả cư dân thành thị lẫn cho nông nghiệp.
Những dự báo u ám này được dựa từ nhiều yếu tố khác nhau. Đầu tiên là yếu tố dân số. Tỷ lệ dân thành thị trên thế giới có lẽ sẽ tăng từ 54% lên hơn 60% từ đây cho đến cuối thế kỷ. Hệ quả là mức nước tiêu thụ hiện nay, vốn dĩ đã tăng gấp 4 lần trong vòng 60 năm qua, ít nhất chắc sẽ tăng thêm 80% từ đây đến năm 2030.
Nghiên cứu chỉ ra rằng hiện tượng khí hậu ấm dần còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng. Biến đổi của lượng mưa không nghiêm trọng bằng việc thay đổi chế độ mưa. Hiện tượng khô hạn và hơi nước bốc nhanh sẽ đan xen ngày càng nhiều. Lượng nước đổ ra biển sẽ nhanh như là lượng mưa rơi, và hệ quả là các mạch nước ngầm không kịp đầy nước.
Tuy nhiên, các nhà khoa học còn có chút tia hy vọng cho rằng nhiều cuộc khủng hoảng vẫn có thể tránh được nếu nhân loại chấp nhận thay đổi cách thức làm nông nghiệp. Tại 80% các vùng hạ lưu nơi có nguy cơ xung đột giữa thành thị và giới nhà nông sẽ có thể tránh nhờ vào việc trồng trọt những loại cây “ngốn” ít nước, tái sử dụng nước đã qua sử dụng, chống rò rỉ hệ thống dẫn nước hay như cải thiện kỹ thuật tưới tiêu hiệu quả hơn.
Những nhà hoạt động môi trường, sinh thái cho rằng cuộc khủng hoảng nước ngọt lần này đã dạy cho những người giàu có quen kiểu tiêu dùng lãng phí hiểu được thế nào là sự thiếu thốn thật sự. Và nếu con người vẫn không thay đổi thói quen sử dụng nước lãng phí, một ngày nào đó chúng ta sẽ không còn một giọt nước để uống.
Linh Đức