Hồ sơ Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý và tuyên bố của Việt Nam
Đại sứ Đặng Hoàng Giang - trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, nộp hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực giữa Biển Đông cho đại diện Ủy ban Ranh giới thềm lục địa Liên Hiệp Quốc - Ảnh: VGP |
Cùng ngày, Bộ Ngoại giao đã ra Tuyên bố về việc Việt Nam nộp đệ trình nêu trên.
Việc nộp đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý là để thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), được quy định tại Điều 76 của UNCLOS.
Theo đó, khi quốc gia ven biển có thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia ven biển cần phải nộp đệ trình về các thông tin và dữ liệu liên quan để Ủy ban Ranh giới thềm lục địa Liên Hiệp Quốc xem xét và ra khuyến nghị về ranh giới của thềm lục địa mở rộng.
Đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở khu vực giữa Biển Đông là đệ trình thứ ba của Việt Nam. Tháng 5-2009, Việt Nam đã nộp đệ trình riêng về Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở khu vực Bắc Biển Đông và đệ trình chung với Malaysia về Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý đối với khu vực Nam Biển Đông.
Trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres về đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở khu vực giữa Biển Đông, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp đệ trình này sẽ không ảnh hưởng tới công tác phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS.
Nhân dịp này, Đại sứ Đặng Hoàng Giang và đoàn công tác của Bộ Ngoại giao Việt Nam bày tỏ cảm ơn sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc trong quá trình Việt Nam nộp các đệ trình của mình theo đúng các quy định có liên quan của UNCLOS và CLCS.
Toàn cảnh sự kiện ngày 17/7 tại New York (Mỹ) - Ảnh do Bộ ngoại giao cung cấp
Nhân sự kiện này, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã long trọng tuyên bố về sự việc. Toàn văn tuyên bố như sau:
1. Là quốc gia lục địa tiếp giáp với Biển Đông và là quốc gia thành viên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), căn cứ vào các quy định liên quan của UNCLOS và phù hợp với điều kiện địa lý tự nhiên của mình, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, khoa học để khẳng định Việt Nam có quyền có thềm lục địa tự nhiên mở rộng ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam.
Năm 2009, Việt Nam đã hoàn thành hai đệ trình quốc gia: đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng khu vực bắc Biển Đông (VNM‑N), đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng khu vực giữa Biển Đông (VNM‑C); đồng thời hợp tác cùng Malaysia xây dựng đệ trình chung Ranh giới thềm lục địa mở rộng đối với khu vực nam Biển Đông.
Tháng 5-2009, Việt Nam đã nộp đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng khu vực bắc Biển Đông và cùng với Malaysia nộp đệ trình chung Ranh giới thềm lục địa mở rộng đối với khu vực nam Biển Đông.
Trong công hàm gửi CLCS khi đó, Việt Nam đã khẳng định sẽ nộp đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng khu vực giữa Biển Đông vào thời điểm sau (nêu tại công hàm số CLCS.37.2009.LOS ngày 11-5-2009 của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc gửi tất cả các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc).
2. Sau khi một số quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông đã nộp các đệ trình riêng của mình từ năm 2019 đến nay, việc Việt Nam nộp đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng khu vực giữa Biển Đông là nhằm bảo đảm các quyền hợp pháp của Việt Nam đối với phần thềm lục địa mở rộng của Việt Nam tại khu vực giữa Biển Đông mà Việt Nam hoàn toàn có quyền được hưởng phù hợp với Điều 76 của UNCLOS.
Việt Nam khẳng định việc Việt Nam nộp đệ trình tại khu vực giữa Biển Đông không ảnh hưởng đến việc phân định biển giữa Việt Nam với các quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông trên cơ sở UNCLOS.
3. Nhân dịp này, Việt Nam khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế và các quyền của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông được xác lập phù hợp với UNCLOS.
Đồng thời, Việt Nam cam kết sẵn sàng giải quyết và kiểm soát các tranh chấp, bất đồng về chủ quyền lãnh thổ liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các tranh chấp về phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia ven biển liên quan ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, đồng thời cùng các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không và phát triển bền vững ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.