Đại dịch Covid-19 đặt ra vấn đề an ninh sinh học
Các hoạt động của con người như phá hoại môi trường sống tự nhiên, thúc đẩy việc lai các loài vật hay thí nghiệm các mầm bệnh đều tạo ra nguy cơ cho chính loài người.
Các vụ bùng phát dịch bệnh là nỗi sợ hãi đối với các chuyên gia trong nhiều thập kỷ. Tình trạng xâm lấn môi trường sống tự nhiên của các loài vật dẫn tới việc bệnh tật từ các loài động vật lây nhiễm tràn lan sang con người. Các ví dụ gần đây về bệnh lây từ động vật sang người gồm bệnh sốt Rift Valley, hội chứng SARS, H1N1 2009, bệnh sốt vàng, cúm gia cầm H5N1, cúm chim H7N9, Ebola, virus Tây Nile, virus Zika, và hội chứng MERS-CoV.
Trên thực tế, 30 mầm bệnh mới ở con người đã được phát hiện trong 3 thập kỷ qua, trong đó tới 75% là bắt nguồn từ động vật. Trường hợp mới nhất là virus SARS-CoV-2.
Virus và các bệnh liên quan không nhất thiết là mới nhưng dường như mức độ lây lan nhanh sang con người đang xảy ra với tần suất ngày càng tăng. Sự nguy hiểm của các virus này nằm ở chỗ chúng là kẻ thù mới đối với hệ thống miễn dịch của con người. Với sự hỗ trợ của các chuỗi cung ứng toàn cầu, các virus trước kia chỉ khu trú trong các ổ dịch tách biệt thì nay có thể vươn ra toàn cầu, tạo ra các đại dịch.
Sự khác biệt về độ nghiêm trọng của dịch bệnh nhiều khi là do các biến thể nhỏ ở bộ gene của virus. Hãy xét bộ ba SARS, MERS và SARS-CoV-2.
SARS bắt nguồn từ Trung Quốc vào năm 2002 và lan truyền tới khoảng 24 nước, lây nhiễm cho hơn 8.000 người, cướp đi sinh mạng của 774 người. MERS bắt nguồn từ Saudi Arabia và lan ra 27 nước, nhiễm vào 2.500 người và giết chết hơn 850 người. Còn SARS-CoV-2 cho tới nay đã lây tới hơn 4 triệu người và làm chết gần 300.000 người.
Trong lịch sử loài người, vô số sinh mệnh đã được cứu nhờ vào nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Khoa học này là tuyệt đối cần thiết trong bảo vệ không chỉ con người mà còn nhiều sinh vật khác, cả động vật và thực vật, cũng như để hiểu biết và bảo vệ các hệ thống sinh thái mong manh. Nhưng các nghiên cứu như vậy phải được thực hiện trên cơ sở ghi nhận và thực hiện kiểm soát chặt chẽ các nguy cơ gắn với các tác nhân có thể làm lây lan dịch bệnh.
Ở Mỹ và hầu hết các quốc gia khác, các biện pháp an toàn sinh học và an ninh sinh học thường được áp dụng để theo dõi và kiểm soát công việc trong các phòng thí nghiệm. An toàn sinh học bảo đảm rằng các nhân viên phòng thí nghiệm được bảo vệ trước các mầm bệnh, nó quy định các quy trình và thiết bị cách ly cần thiết. An ninh sinh học thì bảo đảm các mầm bệnh không bị phát tán vào môi trường và bảo đảm ngăn ngừa kẻ xấu dùng các mầm bệnh đó cho mục đích phi chính đáng.
Trong các năm qua có những nơi vấn đề bảo vệ sinh học bị xao nhãng và thực tế này cần được thay đổi. Vụ Covid-19 cho thấy các sự cố tương tự có thể tái diễn trong tương lai.
Thuật ngữ an toàn sinh học và an ninh sinh học thường chỉ gắn với hoạt động thí nghiệm, nhưng nay đã đến luc các quốc gia cần xem xét cách tiếp cận rộng lớn hơn, đó là hệ thống sinh thái sinh học toàn cầu. Hiện đã có những hướng dẫn về quy trình làm việc với các mầm bệnh trong các phòng thí nghiệm y sinh và vi sinh học. Cũng cần phát triển các hướng dẫn bổ sung giúp ngăn ngừa, ứng phó và giảm thiểu tác động từ các hoạt động của con người xâm hại môi trường sống tự nhiên hay làm các loài tiếp xúc nhau tới mức truyền bệnh.
Linh Đức