Hội thảo khoa học “Công nghệ sinh học với việc cải thiện nguồn cung thực phẩm và sức khỏe”
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Thị Xuyên – Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam chia sẻ: “Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, chúng ta đang đối diện với một vấn đề rất mới: Công nghệ sinh học và thực phẩm biến đổi gen. Dù là một thành tựu khoa học tiến bộ của thế giới trong suốt nhiều chục năm qua và được nhiều quốc gia như Mỹ, Úc, Canada và nhiều quốc gia phát triển khác chấp nhận, nhưng tại Việt Nam, công nghệ sinh học, cây trồng biến đổi gen và những ứng dụng của công nghệ sinh học hiện còn chưa được nhiều người biết đến. Không thể phủ nhận rằng, công nghệ sinh học nói chung và thực phẩm biến đổi gen nói riêng đã đem lại lợi ích nhiều mặt về kinh tế, xã hội, môi trường, góp phần làm tăng năng suất, giảm chi nông nghiệp, đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp an ninh lương thực trên toàn cầu. Tuy nhiên vẫn còn nhiều quan ngại về những ý kiến cho rẳng, công nghệ sinh học có thể gây ra các hiện tượng như dị ứng, ức chế miễn dịch, kháng kháng sinh hay ung thư và nhiều nỗi lo “vô hình khác”. Hội thảo khoa học này nhằm cung cấp thông tin đầy đủ hơn nữa về công nghệ sinh học với việc cải thiện nguồn cung thực phẩm và sức khỏe”.
PGS.TS. Nguyễn Thị Xuyên, Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo
Tại Hội thảo, PGS.TS. Phạm Văn Hoan, Phó Viện trưởng Viện Y học ứng dụng Việt Nam đã đưa ra các thông tin cập nhật về an ninh lương thực, thực phẩm, thực phẩm biến đổi gen (TPBĐG) và vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. PGS.TS. Phạm Văn Hoan đã đưa ra các tranh luận và bằng chứng về tính an toàn, giá trị dinh dưỡng cũng như ảnh hưởng của cây trồng biến đổi gen lên sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhiều tổ chức lớn và uy tín trên thế giới như WHO, FAO, FDA, EPA đều khẳng định rằng: TPBĐG là an toàn, có giá trị dinh dưỡng tương tự như thực phẩm không biến đổi gen và chưa thấy có ảnh hưởng tiêu cực lên sức khỏe con người. PGS.TS. Phạm Văn Hoan nhấn mạnh: “Công nghệ sinh học đã được ứng dụng rộng rãi vào các ngành sản xuất và đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, y dược, thực phẩm và môi trường. Trong đó, nổi bật hơn cả là lĩnh vực y dược, tạo hiệu quả cao trong phục vụ chẩn đoán và điều trị. Riêng lĩnh vực dược phẩm, công nghệ sinh học được ứng dụng để sản xuất Cytokine, Enzyme, Hormone, Yếu tố đông máu, Vaccine, Kháng thể đơn dòng, Chất ức chế enzyme, Chất ức chế miễn dịch,…”
Liên quan đến “Hiện trạng ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp trên toàn cầu”, bà Rhodora R. Aldemita – Giám đốc Trung tâm SEAsia – Giám đốc Trung tâm Kiến thức toàn cầu về công nghệ sinh học, Tổ chức Quốc tế về Tiếp thu các ứng dụng công nghệ sinh học trong Nông nghiệp (ISAAA) khẳng định, công nghệ sinh học là một trong các lựa chọn để đảm bảo an ninh lương thực, ổn định kinh tế và môi trường bền vững. Công nghệ sinh học tiếp tục đóng vai trò quan trọng để đảm bảo mục tiêu đạt 50% nhu cầu thực phẩm vào năm 2050, có thể giúp giải quyết các thách thức được chỉ ra bởi FAO, UN như: Quá trình tăng dân số, đô thị hóa, già hóa; biến đổi khí hậu; năng suất nông nghiệp và sự đổi mới; sâu bệnh xuyên biên giới; dinh dưỡng và sức khỏe; tổn thất thực phẩm và chất thải.
PGS.TS. Phạm Văn Hoan báo cáo khoa học tại Hội thảo
GS.TS. Lê Huy Hàm – Chủ tịch Hội đồng Khoa học, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam cho biết, hiện Việt Nam nhập khoảng 7- 8 triệu tấn ngô, khoảng 5 - 7 triệu tấn đậu tương và sản phẩm đậu tương; trong khi đó năm 2017, Trung Quốc nhập 95 triệu tấn đậu tương và hàng chục triệu tấn ngô. Theo GS.TS. Lê Huy Hàm, công nghệ gen đã giúp Châu Mỹ sản xuất ra lượng lương thực lớn với giá cả hợp lý như vậy. Nếu không có công nghệ gen, châu Á và Việt Nam cũng không được hưởng giá lương thực, thực phẩm như hiện tại.
Cũng tại Hội thảo, TS. Nguyễn Xuân Cảnh - Phó Trưởng khoa Công nghệ sinh học – Học viện Nông nghiệp Việt Nam trình bày báo cáo: “Ứng dụng CNSH trong chọn tạo giống cây trồng thế hệ mới: Ưu điểm và ứng dụng”. Theo đó, công nghệ sinh học, thông qua tác động to lớn tới chọn tạo giống cây trồng, có thể là tác nhân dẫn tới một cuộc cách mạng xanh mới. Cho tới nay, đã có 26 quốc gia trồng 191,7 triệu ha cây trồng công nghệ sinh học (tăng gần 113 lần so với năm 1996). Như vậy, công nghệ sinh học có tiềm năng và triển vọng vô cùng lớn đối với sự phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, cần có các biện pháp đánh giá, quản lý nguy cơ và rủi ro của cây trồng công nghệ sinh học đối với con người và môi trường.
Toàn cảnh Hội thảo
Các nhà khoa học tại Hội thảo đã thảo luận và đi đến thống nhất rằng: Công nghệ sinh học là một trong các lựa chọn để đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, ổn định kinh tế và môi trường bền vững. Công nghệ sinh học đã được ứng dụng nhiều trong nông nghiệp, công nghệ thực phẩm, y học và dược phẩm giúp giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết trong cuộc sống của con người. Đặc biệt, công nghệ sinh học có tiềm năng và triển vọng vô cùng to lớn trong phát triển nông nghiệp, được coi là một trong những giải pháp quan trọng đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm toàn cầu. Cây trồng biến đổi gen giúp giảm chi phí, tăng lợi nhuận, đem lại lợi ích kinh tế cao và đã được nhiều nghiên cứu và các tổ chức uy tín trên thế giới công bố là an toàn đối với sức khỏe con người. Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, cây trồng biến đổi gen nói chung và thực phẩm biến đổi gen nói riêng đã xuất hiện và ngày càng phổ biến hơn.
Hội thảo khuyến nghị: Cần tiếp tục thông tin, giáo dục và truyền thông để người tiêu dùng có cái nhìn đúng đắn, khoa học về công nghệ sinh học và thực phẩm biến đổi gen. Trong thời gian tới, cần có các biện pháp đánh giá, quản lý nguy cơ và rủi ro của cây trồng công nghệ sinh học đối với con người và môi trường. Đồng thời, cần xây dựng hệ thống quản lý, sản xuất cây trồng công nghệ sinh học an toàn, hiệu quả và bền vững, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
Nguyễn Trình