Tầm nhìn mới về biển trong quy hoạch tích hợp cho miền Tây
Biển rộng lớn gấp 9 lần đất liền
Bao quát không gian vùng Tây Nam Bộ là một vịnh rộng khoảng 400.000 km2 của biển Thái Bình Dương. Trong đó, trầm tích sông Mê Kông mới chỉ bồi lấn kiến tạo đất liền gần 40.000 km2, còn không gian biển đảo 360.000 km2 (rộng lớn gấp 9 lần đất liền) có tiềm năng phong phú về nguồn lợi thủy sản, sinh vật biển, khoáng sản và lợi thế giao thương quốc tế.
Từ lâu đời, các cửa sông thông ra biển ở miền Tây đã là những trung tâm hoạt động dịch vụ hậu cần, giao thương nhộn nhịp.
Về mặt lịch sử, nội hàm danh xưng “Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)” trong các văn bản quy hoạch trước đây chưa đủ bao quát cả vùng đất liền và biển đảo Tây Nam mà Vương triều Nhà Nguyễn đã xác lập chủ quyền của nước ta trên cơ sở khai mở, đàm phán, thỏa thuận trong hòa bình từ hơn 300 năm trước. Về xã hội và sinh thái, tại vùng này gần 20 triệu người đang định cư sinh sống khắp từ đất liền đến hải đảo, thuộc 13 tỉnh, thành; điều kiện sinh hoạt, sản xuất được phân biệt bởi hệ sinh thái nước ngọt, nước lợ và nước mặn có mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời.
Miệt đất liền ngọt hóa lâu đời, gồm 5 tỉnh (An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Long An, Hậu Giang và TP. Cần Thơ). Miệt ven biển phân bố dài theo hơn 730km bờ biển, hệ sinh thái nước lợ, gồm 7 tỉnh (Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang). Miệt biển đảo, bao gồm: Vùng biển nước mặn Tây Nam Bộ (thềm lục địa, mặt nước mặn và khoảng 150 hòn đảo có hệ sinh thái nước ngọt, trong đó khoảng 52 đảo có cư dân), địa phận của 29 huyện, thị, thuộc 7 tỉnh ven biển. “Suốt tiến trình lịch sử hình thành và phát triển vùng này các mối liên kết dòng chảy sông ngòi - phù sa - rừng ngập mặn và động lực biển có những mối tương tác chặt chẽ và không thể tách rời nhau” - Tiến sỹ Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu về biến đổi khí hậu (BĐKH) – Trường Đại học Cần Thơ, khẳng định.
Theo Tiến sĩ Đặng Kiều Nhân, Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển đồng bằng sông Cửu Long - Trường Đại học Cần Thơ, thì: “Khi nói đến ĐBSCL người ta thường chỉ chú ý đến phần đất liền 40.000 km2 mà chưa quan tâm nhiều đến biển đảo Tây Nam - vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn”. Vì lẽ đó, có thể gọi là miền Tây (hoặc vùng Tây Nam Bộ), trong các văn bản quy hoạch tích hợp để bao hàm cả miêt phù sa bồì lắng lâu đời, ven sông Tiền, sông Hậu; miệt ven biển giao thoa giữa sông với biển và miệt biển đảo Tây Nam.
Biển là nền của hệ sinh thái
Hiện nay, trên vùng đất liền kênh rạch chằng chịt, mang hình hài con tàu đang lao ra biển Tây Nam này vẫn còn lưu giữ nhiều bằng chứng cho biết nó đã “nổi lên” từ biển. Vết sóng cổ còn in trên vách núi đá ở Hà Tiên (Kiên Giang), thềm biển cổ còn tại chân núi ở thị xã Châu Đốc (An Giang). Nhiều luận điểm khoa học cũng đã khẳng định, khoảng 9.000 năm trước nước biển cao hơn hiện nay khoảng 3m đến 4m, bờ biển ở chân núi vùng Thất Sơn.
Theo Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái, từ chân núi Cấm, lượng định phù sa sông Mê Kông bồi lấn về phía biển đến nay được khoảng 250km, mỗi năm lấn xuống hướng Đông khoảng 16m, lấn xuống hướng Tây Nam khoảng 26m.
Những giồng cát duyên hải, than bùn dưới độ sâu từ 1 – 2m trong rừng U Minh (Kiên Giang), các vùng trũng như Lung Ngọc Hoàng (Hậu Giang), Tràm Chim (Đồng Tháp), đặc biệt là Tứ Giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, là chứng tích biến động của phần trầm tích dòng Mê Kông bồi lấn trải qua các thời kỳ biển dâng - biển cạn lặp đi, lặp lại theo chu kỳ 3.000 năm.
Đến bảo tàng tỉnh Kiên Giang, khu di tích văn hóa Óc Eo ở tỉnh An Giang, còn thấy các vật chứng khảo cổ phản ánh bối cảnh giao thương hàng hải quốc tế sôi động từ đảo Phú Quốc tới chân núi vùng Thất Sơn trong quá khứ. Những mảnh gỗ xác tàu cổ chở gốm sứ Thái Lan, Trung Quốc,… vớt lên từ đáy Rạch Tràm, hòn Dầm, hòn Ông Đội quanh viền nước nông quần đảo Phú Quốc và cả một thương cảng xuất nhập hàng hóa tại trung tâm kinh tế - văn hóa lớn của cư dân cổ, ở huyện Thoại Sơn (An Giang) mới phát lộ. “Trật tự di tích ở 2 hố khai quật đã cho thấy tiến trình lịch sử của cư dân ở một trung tâm liên tục phát triển qua suốt 10 thế kỷ” - Tiến sĩ Phạm Văn Triệu (Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam), trực tiếp khai quật di tích, cho biết.
Không gian biển Tây Nam Bộ có hơn 2.000 loài thủy sản, sinh vật biển đa dạng, phong phú và dưới thềm lục địa có bể trầm tích dầu khí rộng 80.000 km2.
Biển và đất liền có mối tương hỗ, đặc điểm trong phát triển Dọc theo 730 km bờ biển từ Vàm Láng (Gò Công - Tiền Giang) tới Hà Tiên (Kiên Giang), còn những ngôi miếu thờ cá Ông (cá voi) với lễ hội Nghinh Ông – một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh của ngư dân duy trì từ thế kỷ 18 và cả bia tưởng niệm hàng ngàn ngư dân tử nạn trên biển Tây Nam trong cơn bão Linda - 1997.
Cuộc mưu sinh trên biển Tây Nam đã diễn ra từ những ngày đầu cha ông mở cõi với nhiều hiểm nguy rình rập, khó lường. Cá voi là điểm tựa tinh thần Hệ thống hơn 150 hòn đảo là hệ sinh thái nước ngọt, là điểm tựa vững chắc cho tàu thuyền hoạt động trên biển. 3031 SỐ 97 (Tháng 4 - 2021) của ngư dân trước sóng, gió trên biển nước nhưng đã không thể giúp hàng ngàn người vượt qua thảm họa thiên tai. Ý thức sống nương dựa vào ưu đãi từ thiên nhiên của miền Tây đã bị đánh chìm từ thảm họa bão Linda và một trận áp thấp trên biển Đông đúng 20 năm sau đó. Ứng phó nhanh, an toàn, hiệu quả, thể hiện quan hệ phối hợp của các bộ phận trong đất liền với người, phương tiện hoạt động ngoài biển, đảo đã không ngừng được thắt chặt, rút ngắn khoảng cách bằng giải pháp ứng dụng công nghệ.
Hàng trăm ngàn tàu thuyền đánh bắt gần bờ, xa bờ trên biển Tây Nam đang được khuyến khích phổ biến ứng dụng máy dò luồng cá, máy lọc nước biển thành nước ngọt, công nghệ mới bảo quản sản phẩm, trang bị Rada hàng hải, máy thông tin liên lạc tầm xa tích hợp định vị vệ tinh GPS để cập nhật diễn biến thời tiết, kịp thời ứng phó, nâng cao hiệu quả hoạt động, phù hợp pháp lý quốc tế. Ở tỉnh Kiên Giang, cán bộ Chi cục Thủy sản ngồi tại phòng làm việc trong đất liền có thể theo dõi, giám sát, hỗ trợ ngư dân thông qua phần mềm công nghệ thông tin kết nối thiết bị giám sát hành trình lắp đặt trên 3.000 tàu đánh bắt xa bờ.
Các hoạt động khai thác dầu khí từ bể trầm tích dưới thềm lục địa (rộng 80.000 km2), giao thương hàng hải với các quốc gia láng giềng như Malaysia, Thái Lan, Campuchia,… và sinh hoạt của hàng trăm ngàn cư dân với phong trào nuôi trồng thủy sản bằng lồng bè, phát triển du lịch sinh thái, cùng các lực lượng bảo vệ chủ quyền lãnh hải trên vùng biển Tây Nam, cũng đang không ngừng hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách với đất liền, giảm thiểu rủi ro, nâng cao năng lực vươn khơi bám biển.
“Kinh tế biển bao gồm khai thác tài nguyên trực tiếp từ biển, kinh tế dựa vào biển, kinh tế đảo và kinh tế ven biển. Cụ thể là nuôi trồng và đánh bắt thủy - hải sản, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí biển, khoáng sản, năng lượng tái tạo, vận tải và dịch vụ hậu cần, du lịch biển đảo… Do đó, không gian đất liền và không gian biển có mối quan hệ tương hỗ, đặc điểm quan trọng trong phát triển bền vững vùng” - Tiến sỹ Đặng Kiều Nhân khẳng định.
Kỳ vọng lớn tiềm tàng từ biển…
Ở miền Tây, lâu nay giới đầu tư bất động sản tầm cỡ đổ về Cà Mau, Kiên Giang, nhất là đảo Phú Quốc, ấp ủ “thiên cơ” tiềm ẩn từ biển Tây Nam. Họ biết đảo Hòn Khoai là chỉ dấu của kênh đào Kra đã được khởi xướng từ 300 năm qua, sẽ triển khai tắt ngang miền Nam nước Thái, mở huyết mạch hàng hải cho tàu thuyền quốc tế từ Ấn Độ Dương đi thẳng vào biển Đông, vịnh Thái Lan - Thái Bình Dương, giảm cả ngàn cây số so với đi vòng lên eo Malacca.
Hệ thống hơn 150 hòn đảo là hệ sinh thái nước ngọt, là điểm tựa vững chắc cho tàu thuyền hoạt động trên biển.
Nhiều tài liệu phân tích chỉ ra rằng, dự án kênh đào Kra hoàn thành thì biển đảo Tây Nam sẽ là vùng thương cảng quốc tế sôi động. Đảo Hòn Khoai cách đất liền hơn 15km đã được quy hoạch cảng biển nước sâu tầm vóc quốc tế và miền Tây sẽ xoay trục phát triển từ đây. Họ tin viễn cảnh đó và theo dõi sát tiến trình triển khai đầu tư nâng cấp, xây dựng hệ thống 13 cảng cá loại 2 và 21 khu neo đậu tránh trú bão cho tàu thuyền trên vùng biển đảo Tây Nam theo quy hoạch.
Nhìn vào bản đồ thấy rõ miền Tây không chỉ bó hẹp trong đất liền mà hoàn toàn có thể vươn ra không gian biển đảo rộng lớn, kết nối với các nước láng giềng trong khối ASEAN. Do đó việc nhận diện những vấn đề cấp bách, triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp phát triển bền vững vùng biển đảo Tây Nam Bộ cần được tiến hành ngay từ trong lộ trình hoạch định chiến lược. Nếu thiếu chú trọng đến tiềm năng, lợi thế và mối quan hệ đặc thù của biển với đất liền thì đây sẽ là khiếm khuyết rất cơ bản trong quy hoạch tích hợp cho miền Tây phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.
HÙNG LONG