Cần duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên toàn quốc
Cần duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên toàn quốc |
Thực trạng mức sinh giảm thấp
Tại Hội thảo quốc tế tham vấn chính sách, giải pháp ngăn chặn xu hướng mức sinh thấp do Cục Dân số, Bộ Y tế tổ chức ngày 28/8, ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng cục Dân số (Bộ Y tế) cho biết, bên cạnh những lợi thế, cơ hội mà thành tựu giảm sinh trong thời gian qua mang lại, Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức mới nảy sinh.
Thách thức đầu tiên là việc duy trì mức sinh thay thế vững chắc trên phạm vi toàn quốc chưa thực sự bền vững, mức sinh chênh lệch đáng kể giữa các vùng, đối tượng, xuất hiện xu hướng mức sinh thấp.
Cụ thể, mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm dưới mức sinh thay thế, tổng tỷ suất sinh năm 2023 là 1,96 con/phụ nữ, mức giảm thấp nhất từ trước tới nay và được dự báo sẽ tiếp tục giảm trong các năm tiếp theo.
Nếu theo vùng kinh tế - xã hội, nước ta hiện có 2/6 vùng là Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp dưới mức sinh thay thế, trong đó Đông Nam Bộ số con trung bình là 1,47 con.
Có tới 21/63 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp, chiếm khoảng 39,37% dân số cả nước. Đa số là những tỉnh nằm ở vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Nam, đô thị hóa cao, tăng trưởng kinh tế nhanh.
"Nếu mức sinh giảm thấp và kéo dài sẽ tác động trực tiếp, sâu sắc tới quy mô dân số, cơ cấu dân số và để lại nhiều hệ lụy như thiếu hụt lực lượng lao động, già hóa dân số nhanh và suy giảm quy mô dân số… tác động lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước", ông Lê Thanh Dũng nhấn mạnh.
Và thách thức thứ hai là độ tuổi kết hôn lần đầu tăng
Theo ông Phạm Vũ Hoàng, Phó Cục trưởng Cục Dân số, tuổi kết hôn trung bình lần đầu ở nước ta đang thay đổi theo hướng kết hôn muộn hơn. Năm 1999, tuổi kết hôn lần đầu trung bình là từ 24,1 tuổi; đến năm 2019, tăng lên 25,2 tuổi. Sau 4 năm, đến năm 2023, tuổi kết hôn lần đầu tiếp tục tăng thêm 2 tuổi và hiện là 27,2 tuổi.
Với nam giới, tuổi kết hôn trung bình lần đầu là 29,3 và nữ giới là 25,1. Phụ nữ ở thành thị sinh con muộn và sinh con ít hơn phụ nữ ở khu vực nông thôn.
Ông Phạm Vũ Hoàng cũng chia sẻ số liệu năm 2023 cho thấy, trung bình những người giàu nhất có mức sinh là 2 con, người nghèo nhất có mức sinh là 2,4 con, người có mức sống khá và trung bình sinh từ 2,03 đến 2,07 con. Người có trình độ học vấn dưới tiểu học, có mức sinh trung bình 2,35 con, người có trình độ trên PTTH chỉ đẻ 1,98 con.
"Mức sinh ngày càng giảm là do đô thị hóa, kinh tế phát triển, áp lực tìm kiếm việc làm, nhà ở, chi phí sinh hoạt, chi phí nuôi dạy và chăm sóc con gia tăng. Bên cạnh đó, hạ tầng cơ sở có nhiều bất cập như thiếu trường học, học phí, viện phí cao, không động viên mọi người sinh con…", ông Hoàng phân tích.
Tham khảo chính sách ứng phó
Trên thế giới, theo báo cáo triển vọng dân số năm 2024 của Liên Hợp Quốc, phụ nữ ngày nay sinh ít hơn trung bình một con so với năm 1990. Hiện tại, mức sinh toàn cầu là 2,3 con/phụ nữ, giảm so với mức 3,3 con/phụ nữ vào năm 1990.
Hơn một nửa các quốc gia và khu vực trên toàn cầu có tổng tỷ suất sinh dưới mức sinh thay thế (dưới 2,1 con/phụ nữ); trong khi mức sinh thay thế - mức cần thiết để duy trì quy mô không đổi trong thời gian dài mà không cần di cư.
Hiện, trên toàn cầu có khoảng 55 quốc gia có chính sách nâng mức sinh. Tuy nhiên, việc nâng mức sinh tại các quốc gia có mức sinh rất thấp hầu như chưa mang lại kết quả khả quan.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ đặt ra với chúng ta là cần duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc.
Tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên nhấn mạnh, chúng ta cần nghiên cứu, đề xuất các chính sách cụ thể ứng phó, ngăn chặn xu hướng giảm sinh nhằm bảo đảm vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia. Quan điểm, kinh nghiệm thực thi các chính sách ứng phó với mức sinh thấp của các nước trên thế giới và khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ là những bài học thực tế quý báu đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng chính sách.
Hội thảo là dịp để cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định cũng như thực thi chính sách ở cấp Trung ương, địa phương trong lĩnh vực dân số - y tế về thực trạng và xu hướng mức sinh tại Việt Nam; các yếu tố ảnh hưởng đến số con mong muốn của các cặp vợ chồng ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp của Việt Nam; tham khảo quan điểm và chính sách ứng phó với mức sinh thấp của các nước trên thế giới, các ví dụ và thực hành tốt từ khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các khu vực khác, từ đó đưa ra định hướng chung trong xây dựng chính sách nhằm duy trì mức sinh thay thế tại Việt Nam.