Giãn tĩnh mạch mạng nhện và suy giãn tĩnh mạch nông
Giãn tĩnh mạch mạng nhện là các mạch máu nhỏ nằm ngay dưới da có màu đỏ, xanh hoặc tím chạy ngoằn ngoèo hình mạng nhện và không nổi lên bề mặt da. Kích thước các mạch mạng nhện rất nhỏ, thường khoảng 1 – 2 mm.
Giãn tĩnh mạch nông là các mạch máu lớn hơn 2mm giãn và nổi gồ lên bề mặt da. Các tĩnh mạch nông này cũng chạy ngoằn ngoèo và dễ dàng nhìn bằng mắt thường.
Cả giãn tĩnh mạch nông và giãn tĩnh mạch mạng nhện có thể gặp ở mọi nơi trong cơ thể nhưng thường gặp nhất ở chân.
1. Điều gì gây nên giãn tĩnh mạch nông/mạng nhện ?
Hệ thống tĩnh mạch bao gồm tĩnh mạch nông, tĩnh mạch sâu và các tĩnh mạch nối thông tĩnh mạch nông với tĩnh mạch sâu gọi là tĩnh mạch xiên. Suy van tĩnh mạch bắt nguồn từ tình trạng ứ trệ máu trong tĩnh mạch ở một thời điểm nào đó trong đời. Các thời điểm đó bao gồm: đứng/ngồi lâu một tư thế không vận động, ngồi lâu trên chuyến bay nhiều giờ, có thai, bị tắc tĩnh mạch…
Các tĩnh mạch khoẻ mang máu đến tim thông qua lực bóp của các cơ bắp. Dòng máu chỉ chảy một chiều về tim mà không chảy ngược lại nhờ các van tĩnh mạch. Vì một lý do nào đó khiến máu ứ lại tĩnh mạch như: phụ nữ có thai bị chèn ép tĩnh mạch về, người đứng lâu ở một tư thế cản trở máu về tim, người có thói quen ít vận động… sẽ làm tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch. Áp lực tăng làm lòng tĩnh mạch giãn ra khiến cho các van hở và dòng chảy rò xuống qua lỗ van hở. Dòng chảy xuống càng làm tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch làm cho mạch bị giãn ra gây hở van nhiều hơn… Cứ như thế tạo thành vòng xoắn bệnh lý làm bệnh càng nặng hơn. Còn một cơ chế khác sinh ra suy tĩnh mạch là bệnh lý tại chính van tĩnh mạch. Một số người có “cơ địa” van tĩnh mạch co giãn kém dẫn đến không thực hiện được chức năng ngăn dòng máu trào ngược. Những người này thường bị giãn mạch nhiều vị trí, thậm chí giãn cả ở mu bàn tay và cẳng tay…
2. Ai dễ bị giãn tình mạch nông/mạng nhện ?
Bất cứ ai cũng có thể bị giãn tĩnh mạch mạng nhện/tĩnh mạch nông nhưng nữ giới dễ mắc phải gấp hai lần nam giới do nữ giới phải chịu gánh nặng sinh nở. Người có thói quen đứng lâu ở một tư thế do yêu cầu nghề nghiệp; người ít vận động, nhân viên văn phòng ngồi nhiều…
3. Triệu chứng của giãn tĩnh mạch nông/mạng nhện
Đôi khi tĩnh mạch mạng nhện xuất hiện mà không có suy tĩnh mạch nông hay sâu, lúc này tĩnh mạch mạng nhện đơn giản chỉ là các mao mạch bị giãn nằm lộ dưới da. Không may là các tĩnh mạch này thường nằm ở khoeo chân, mặt trước ngoài của đùi rất dễ nhận ra; đặc biệt là nó thường lan rộng theo thời gian. Lúc này việc chữa hay không chữa phụ thuộc vào nhu cầu thẩm mỹ chứ không phải để đề phòng biến chứng của giãn mạch.
Trong trường hợp giãn tĩnh mạch mạng nhện kết hợp với giãn cả tĩnh mạch nông thì thường là do suy van tĩnh mạch. Lúc này giãn tĩnh mạch nông có thể gây đau tức hoặc bó cứng ở chân. Khu vực bị ảnh hưởng có thể đau, rát, ngứa, hoặc cảm thấy nặng nề. Các triệu chứng trên thường vào cuối ngày khi người bệnh sau một ngày dài ở tư thế đứng và triệu chứng gần như mất đi vào buổi sáng sớm khi ngủ dậy.
Một số các tĩnh mạch bị giãn nặng có thể bị đau khi chạm vào do biến chứng tổn thương thần kinh xung quanh mạch. Chúng cũng có thể gây ra những thay đổi về da mãn tính như sự đổi màu và loét da.
4. Những biến chứng của giãn tĩnh mạch nông
Ngoài triệu chứng rối loạn nuôi dưỡng ở chân (đổi màu da, chàm, loét…) bệnh giãn tĩnh mạch có thể hình thành các cục máu đông do dòng chảy chậm bên trong lòng tĩnh mạch. Cục máu đông có thể nằm tại chỗ gây tắc tĩnh mạch hoặc di chuyển vào tuần hoàn tĩnh mạch sâu có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
5. Chẩn đoán giãn tĩnh mạch nông/mạng nhện
Giãn tĩnh mạch mạng nhện và giãn tĩnh mạch nông rất dễ chẩn đoán. Thấy các mạch máu giãn ngoằn ngoèo dưới da hoặc các tĩnh mạch chìm dưới da như “mạng nhện”. Tuy nhiên để phát hiện sớm bệnh và để đánh giá nhánh tĩnh mạch nào bị suy giãn thì cần phải siêu âm Doppler tĩnh mạch.
Nhờ có siêu âm, bác sĩ có thể biết chính xác mức độ bệnh nặng hay nhẹ, mạch máu nào bị tổn thương, các biến thể giải phẫu nối thông tĩnh mạch nông với tĩnh mạch sâu… và đây cũng là cơ sở để lựa chọn phương pháp điều trị.
6. Điều trị
6.1. Điều trị không can thiệp
- Uống thuốc, bôi thuốc ngoài da: Các thuốc được cho là tăng sức bền cho thành mạch có thể dùng nhưng nếu giãn mạch mức độ nặng thì thường ít hiệu quả.
- Đeo bít tất dài: Cách đơn giản nhất để điều trị giãn tĩnh mạch nông hoặc giãn tĩnh mạch mạng nhện là đeo bít tất dài. Những chiếc bít tất với khả năng ép, nén sẽ làm tĩnh mạch không bị giãn to, giảm ứ trệ dòng máu làm ngăn vòng xoắn của bệnh, giảm đau tức bắp chân. Bạn có thể tìm mua những chiếc tất “thời trang” cao tới đầu gối bó sát như vậy ở các cửa hàng bán đồ phẫu thuật hay hiệu thuốc hoặc của các công ty nhập khẩu tất áp lực.
- Thay đổi lối sống:
Mấu chốt của bệnh là sự bất động chân ở một tư thế kéo dài gây nên toàn bộ các vấn đề trên. Vậy, vận động là giải pháp để thay đổi. Nếu có thể, hãy cử động các khớp cổ chân, bắp chân, đùi… ngay cả khi đứng hay ngồi làm việc.
Giảm cân và đi bộ thường xuyên có thể giảm nhẹ những biến chứng của giãn tĩnh mạch mạng nhện và nông. Lưu ý, có một số bài tập để tăng cường khả năng đẩy máu về tim có thể áp dụng cho cả những người đang phải làm việc ở văn phòng hoặc người đang ở tư thế đứng làm việc… Cơ sở của các bài tập luyện trên là vận động các cơ của bàn chân, cẳng chân để đẩy máu về tim.
6.2. Điều trị can thiệp
- Tiêm xơ (Sclerotherapy): Nếu biện pháp khắc phục tại nhà không mang lại đủ sự cải thiện, có các liệu trình y học để loại bỏ giãn tĩnh mạch mạng nhện và giãn tĩnh mạch nông. Tiêm xơ có thể điều trị 80% các tĩnh mạch nông và tĩnh mạch mạng nhện. Bác sĩ tiêm một dung dịch trực tiếp vào tĩnh mạch bất thường. Các mạch máu bị phá hủy, trở nên xơ cứng, và cuối cùng biến mất. Liệu trình này yêu cầu trình độ kỹ thuật cao và đào tạo đặc biệt. Cần phải có kinh nghiệm làm siêu âm để đánh giá hết các tuần hoàn phụ, xác định được mạch nào là mạch chính cần điều trị (feeding veins), mạch nào có thể tự mất sau can thiệp.
Lưu ý: các chất tiêm xơ có đặc tính là ăn mòn da cao, việc tiêm nhầm vào các khu vực bên ngoài tĩnh mạch có thể dẫn đến các phản ứng phụ nghiêm trọng trong mô xung quanh tĩnh mạch. Vì vậy tiêm xơ phải thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm để hạn chế tối đa biến chứng thoát thuốc tiêm xơ ra ngoài lòng mạch.
Sau khi điều trị với tiêm xơ, giãn tĩnh mạch mạng nhện biến mất trong vòng từ ba đến sáu tuần, trong khi giãn tĩnh mạch nông có thể mất từ ba đến bốn tháng để phản ứng. Một khi đã biến mất, tĩnh mạch sẽ không xuất hiện trở lại. Nhưng có thể bạn sẽ phát triển giãn tĩnh mạch mạng nhện mới ở vị trí cũ hoặc vị trí khác trên da.
- Chiếu laser ngoài da
Liệu pháp chiếu laser và xung ánh sáng cường độ mạnh dùng cho các tĩnh mạch mạng nhện nhờ vào tác dụng nhiệt từ bên ngoài. Nhiệt chiếu từ bên ngoài vào làm đông máu trong tĩnh mạch mạng nhện hình thành mô sẹo. và cuối cùng sẽ khép lại tĩnh mạch. Nhược điểm của phương pháp này là tác dụng chậm, có khi phải mất đến vài năm, hiệu quả không cao. Tác dụng phụ có thể bao gồm sự khó chịu nhỏ trong vùng điều trị, sự đổi màu da, và sự hình thành các vẩy.
- Phẫu thuật lột tĩnh mạch
Dành cho các tĩnh mạch nông giãn quá lớn. Bác sĩ sẽ rạch da, lấy bỏ toàn bộ các tĩnh mạch giãn trên toàn bộ chiều dài của tĩnh mạch. Nhược điểm của phương pháp này là phải phẫu thuật và để lại sẹo.
Hiện nay sự ra đời của các phương tiện gây tắc trong lòng mạch đã thay thế dần cho phẫu thuật. Phẫu thuật hầu như chỉ áp dụng cho một số bệnh nhân cao tuổi, mạch giãn quá lớn và không yêu cầu về mặt thẩm mĩ.
- Điều trị gây tắc trong lòng mạch: Laser, sóng cao tần, bơm tắc mạch bằng keo
Gây tắc mạch bằng Laser/sóng cao tần nội mạch là một phương pháp mới cho tĩnh mạch để thay thế cho điều trị phẫu thuật kinh điển. Một dây dẫn nhỏ được luồn vào bên trong tĩnh mạch. Qua dây dẫn này, tác dụng nhiệt của laser hoặc sóng cao tần làm cho lòng mạch bị tắc và xơ lại từ bên trong, ngăn không cho dòng trào ngược tĩnh mạch xuống dưới chân. Điều này sẽ làm cho các tĩnh mạch giãn trở nên xẹp lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy, điều trị laser nội mạch hiệu quả 98%. Các bệnh nhân phản hồi lại rằng cách điều trị này hầu như không đau. Bệnh nhân có thể điều trị và ra viện trong cùng ngày. Sau can thiệp vài tiếng có thể vận động và trở lại công việc hàng ngày mà không phải nghỉ việc.
ThS.BSNT Nguyễn Ngọc Cương - Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội
(Theo Sở Y tế Hà Nội)