Huyện Việt Yên (Bắc Giang): Trạm trộn bê tông hết hạn vẫn hoạt động trái phép, xả thải trực tiếp xuống sông Cầu
4 doanh nghiệp hoạt động nhưng thực tế chỉ 2 doanh nghiệp từng được cấp phép...
Như nội dung nghiên cứu đã được đăng tải ngày 3/11 trên tạp chí Sức khỏe & Môi trường với nội dung “Huyện Việt Yên (Bắc Giang): Trạm trộn bê tông, bãi tập kết vật liệu xây dựng “bức tử” sông Cầu”. Trong quá trình tiếp tục tìm hiểu và khảo sát thực tế tại huyện Việt Yên, để phân tích dữ liệu liên quan đến môi trường tại đây vào ngày 14/11, PV tạp chí Sức khỏe & Môi trường đã có buổi làm việc với Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Việt Yên để có thông tin chính xác và khách quan về tác động của các trạm trộn bê tông hoạt động trên địa bàn ngoài đê sông Cầu thuộc địa bàn xã Quang Châu (huyện Việt Yên).
Dù giấy phép hoạt động bến thuỷ nội địa đã hết hiệu lực từ 2021, các hoạt động tàu bè vận chuyển, tập kết VLXD tại khu vực này vẫn diễn ra vô cùng nhộn nhịp
Trao đổi với phóng viên, ông Tống Việt Lâm - Phó Trưởng phòng Kinh tế huyện Việt Yên cho biết, trên khu vực ngoài đê xã Quang Châu có 2 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động trạm trộn bê tông là Công ty Xây dựng Việt Đức và Công ty Hoàn Chinh.
Tuy nhiên, khi được phóng viên đặt câu hỏi là thực tế tại khu vực này có đến 4 đơn vị trạm trộn bê tông đang hoạt động là Công ty Việt Nhật, Công ty Việt Đức, Công ty 138, Công ty Hoàn Chinh thì Phó Trưởng phòng Kinh tế huyện Việt Yên cho biết Công ty Việt Đức đã cho hai công ty khác vào các thuê lại vị trí, địa điểm của mình để kinh doanh, sản xuất.
Cũng theo ông Lâm, sau khi UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt đề án 468 về Tăng cường quản lý nhà nước đối với bến thủy nội địa và hoạt động kinh doanh vật liệu xây dựng ven sông trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2021-2022 đã yêu cầu tất cả chủ đầu tư bến bãi tập kết, bến thủy nội địa, kinh doanh, thương mại dịch vụ... phải điều chỉnh đánh giá lại tác động ảnh hưởng tới môi trường. Và hồ sơ của các đơn vị này đều “đều nằm trên UBND tỉnh”.
Theo đề án Tăng cường quản lý nhà nước đối với bến thủy nội địa và hoạt động kinh doanh vật liệu xây dựng ven sông trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2021-2022 thì hiện tại, trên địa bàn toàn tỉnh Bắc Giang có 85 dự án đã được UBND tỉnh Quyết định chủ trương đầu tư hoặc cấp Giấy chứng nhận đầu tư (sau đây gọi chung là chấp thuận đầu tư) có liên quan tới tập kết, kinh doanh vật liệu xây dựng ở bãi sông với tổng vốn đầu tư khoảng 732,33 tỷ đồng; diện tích đất đăng ký khoảng 48,36 ha. Trong đó, trên địa bàn thành phố Bắc Giang có 8 dự án, huyện Hiệp Hòa có 18 dự án, Lục Nam 11 dự án, Tân Yên 3 dự án, Việt Yên 15 dự án, Yên Dũng 22 dự án, Yên Thế 3 dự án, Lạng Giang 5 dự án.
Đáng chú ý, trong tổng số 85 dự án được chấp thuận đến nay chỉ có 21 dự án được cấp phép hoạt động bến thủy nội địa. Tuy nhiên có 17 giấy phép đã hết hạn, còn lại 4 dự án còn hạn Giấy phép hoạt động bến thủy nội địa trong đó 3 dự án đến 2022 là hết hạn, 01 dự án còn hạn.
Trong Đề án 468 đã nêu rõ một số tồn tại như: Các dự án đầu tư khi đi vào hoạt động còn chưa chấp hành nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường và thực hiện các cam kết về bảo vệ môi trường của nhà đầu tư còn chưa được nghiêm chỉnh. Tình trạng bụi phát sinh từ hoạt động bốc xếp vật liệu xây dựng xảy ra phổ biến ở hầu hết các bãi kinh doanh mà chưa được khống chế, ảnh hướng đến đời sống của nhân dân tại khu vực xung quanh. Bên cạnh đó, các vật liệu thải loại chưa được thu gom, tập kết triệt để, còn có hiện tượng xả thải trực tiếp xuống lòng sông làm cản trở dòng chảy. Việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ đê điều và phòng chống lụt bão của các dự án kinh doanh vật liệu xây dựng ven sông nhìn chung còn chưa nghiêm. Còn có hiện tượng tập kết vật liệu xây dựng vào hành lang bảo vệ đê hoặc tập kết vào phần diện tích đất chưa được cho thuê. Đặc biệt, vào mùa mưa lũ, các nhà đầu tư chưa chấp hành nghiêm việc không tập kết vật liệu xây dựng theo đúng quy định...
Hệ thống xử lý nước thải không hoạt động, Công ty Việt Đức xả nước thải trực tiếp xuống sông Cầu
Không hề có dấu hiệu là hệ thống thu gom, xử lý nước thải của Công ty Việt Đức đang hoạt động dù tại đây việc sản xuất xi măng tươi, xịt rửa xe bê tông vẫn diễn ra liên tục
Để có thông tin chính xác nhất, Phóng viên tạp chí Sức khỏe & Môi trường cùng ông Tống Việt Lâm - Phó Trưởng phòng Kinh tế huyện Việt Yên và ông Nguyễn Danh Sướng - Hạt trưởng Hạt quản lý đê huyện Việt Yên đã trực tiếp khảo sát tại khu vực các đơn vị trạm trộn be tông đang hoạt động ở ngoài đê sông Cầu thuộc địa bàn xã Quang Châu.
Tại khu vực trạm trộn bê tông của Công ty Việt Đức, hệ thống thu gom, xử lý nước thải sản xuất của đơn vị này không hề hoạt động. Không những thế, trong diện tích sử dụng của Công ty Việt Đức còn xuất hiện một đường xả thải trực tiếp từ các trạm trộn bê tông xuống thẳng sông Cầu.
Nước thải từ hoạt động sản xuất, vận chuyển xi măng của Công ty Việt Đức theo đường ống cống xả trực tiếp xuống xông Cầu mà không hề thông qua hệ thống lọc
Trong khi đó theo Báo cáo việc thực hiện pháp luật đất đai và bảo vệ môi trường của Công ty xây dựng Việt Đức ngày 10/2/2020 gửi Sở TN&MT lại thể hiện rằng nước thải sẽ được thu gom vào bể lắng để lắng các thành phần cặn như cát, sỏi... sẽ lắng xuống và được giữ lại, dầu từ quá trình rửa xe cũng được vớt ra thủ công từ hố lắng để đưa vào bể chứa và định kỳ 1 tháng/lần đưa đi xử lý riêng.
Được biết, nước thải sinh ra trong công nghệ sản xuất xi măng gồm nước thải sản xuất, nước thải sinh hoạt và nước mưa. Trong đó, nước thải sản xuất từ quá trình nghiền nguyên liệu chứa bùn nhiều tạp chất rắn trong đó có các kim loại như sắt, nhôm, silic...; nước thải rửa sân, tưới sân, khử bụi… chứa nhiều tạp chất rắn và các loại chất bẩn khác. Đặc trưng của nước thải trong quá trình này là hàm lượng cặn lơ lửng lớn (500 – 1500mg/l), độ kiềm cao (thường có pH > 8,0), tổng độ khoáng hoá lớn (500 -1000mg/l);
Theo chuyên gia, dầu mỡ trong nước thải sản xuất xi măng nếu không được xử lý đúng quy trình sẽ lan truyền và khuếch tán thành lớp màng mỏng cản trở các quá trình trao đổi chất, các hoạt động sống của thủy sinh vật. Nước thải rửa thiết bị, vệ sinh bể chứa dầu MFO … có hàm lượng dầu, cặn lơ lửng, COD lớn. Lượng nước thải này nhỏ song các chất độc hại có thể gây ảnh hưởng đáng kể đến hệ sinh thái các vực nước nhỏ.
Liên quan đến Công ty Việt Đức, ngày 2/2/2021 Sở NN&PTNT tỉnh Bắc Giang đã có Văn bản số 224/SNN-TL trả lời Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Giang về việc tham gia ý kiến thẩm định hồ sơ đề nghị điều chỉnh dự án “Bãi trung chuyển vật liệu xây dựng” tại thôn Đông Tiến, xã Quang Châu, huyện Việt Yên của Công ty Xây dựng Việt Đức.
Theo đó, khu vực đề nghị điều chỉnh dự án thuộc phần bãi phía sông, địa phận thôn Đông Tiến, xã Quang Châu, huyện Việt Yên đã được UBND tỉnh Bắc Giang cấp Giấy chứng nhận đầu tư lần đầu số 2012100426 ngày 11/4/2013 và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư số 004013875 ngày 27/02/2017 (chứng nhận thay đổi lần thứ nhất). Theo Công văn số 1157/UBND-NN ngày 14/4/2017 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc đồng ý chủ trương xây dựng bổ sung các hạng mục công trình thuộc dự án: Bãi trung chuyển vật liệu xây dựng liên quan đến đê điều tại K54+650-K54+760 đê tả Cầu, trong đó xây dựng tường kè chống sạt lở bờ sông với quy mô: chiều dài 195 m, cao độ đỉnh tường kè sau khi hoàn thiện là +4,0 m.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, Công ty Việt Đức đã thi công không đúng với giấy phép của UBND tỉnh Bắc Giang cho phép, cụ thể: cao độ đỉnh tường kè hoàn thiện +4,50 m (cao hơn cho phép 0,5 m), tự ý hạ thấp cao trình bãi khu vực bờ sông với chiều dài 185 m, rộng khoảng 15 m (từ bờ sông trở vào), sâu từ (1,5 &pide; 2,5) m so với mặt bãi tự nhiên và đổ bê tông đáy.
Dù Sở NN&PTNT đã nhiều lần đôn đốc yêu cầu Công ty tự tháo dỡ phần xây dựng sai phép và không được chất tải trong khu vực bảo vệ bờ sông; hiện tại Công ty chưa chấp hành nghiêm việc hạ thấp tường kè và vẫn tiếp tục hoạt động chất tải vật liệu xây dựng sát tường kè.
Do vậy, Sở Nông nghiệp và PTNT chưa nhất trí đề nghị điều chỉnh dự án để hoạt động bến thủy nội địa; khi nào Công ty xử lý xong các vi phạm trên, Sở Nông nghiệp và PTNT sẽ xem xét.
Theo điều 235, Bộ luật hình sự 2017 quy định về tội gây ô nhiễm môi trường như sau: 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường trái pháp luật từ 1.000 kilôgam đến dưới 3.000 kilôgam chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy hoặc từ 3.000 kilôgam đến dưới 10.000 kilôgam chất thải nguy hại khác; b) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường trái pháp luật từ 500 kilôgam đến dưới 1.000 kilôgam chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy hoặc từ 1.500 kilôgam đến dưới 3.000 kilôgam chất thải nguy hại khác nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Xả thải ra môi trường từ 500 mét khối (m3) trên ngày đến dưới 5.000 mét khối (m3) trên ngày nước thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 05 lần đến dưới 10 lần hoặc từ 300 mét khối (m3) trên ngày đến dưới 500 mét khối (m3) trên ngày nước thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường 10 lần trở lên; d) Xả thải ra môi trường 500 mét khối (m3) trên ngày trở lên nước thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 03 lần đến dưới 05 lần hoặc từ 300 mét khối (m3) trên ngày đến dưới 500 mét khối (m3) trên ngày nước thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 05 lần đến dưới 10 lần hoặc từ 100 mét khối (m3) trên ngày đến dưới 300 mét khối (m3) trên ngày nước thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường 10 lần trở lên nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; đ) Thải ra môi trường từ 150.000 mét khối (m3) trên giờ đến dưới 300.000 mét khối (m3) trên giờ khí thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 05 lần đến dưới 10 lần hoặc từ 100.000 mét khối (m3) trên giờ đến dưới 150.000 mét khối (m3) trên giờ khí thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường 10 lần trở lên; e) Thải ra môi trường 150.000 mét khối (m3) trên giờ trở lên khí thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 03 lần đến dưới 05 lần hoặc từ 100.000 mét khối (m3) trên giờ đến dưới 150.000 mét khối (m3) trên giờ khí thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 05 lần đến dưới 10 lần hoặc từ 50.000 mét khối (m3) trên giờ đến dưới 100.000 mét khối (m3) trên giờ khí thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường 10 lần trở lên nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; g) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường trái pháp luật chất thải rắn thông thường từ 100.000 kilôgam đến dưới 200.000 kilôgam hoặc từ 70.000 kilôgam đến dưới 100.000 kilôgam nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; h) Xả thải ra môi trường nước thải, chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất thải rắn hoặc phát tán khí thải có chứa chất phóng xạ vượt giá trị liều từ 50 milisivơ (mSv) trên năm đến dưới 200 milisivơ (mSv) trên năm hoặc giá trị suất liều từ 0,0025 milisivơ (mSv) trên giờ đến dưới 0,01 milisivơ (mSv) trên giờ. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường trái pháp luật từ 3.000 kilôgam đến dưới 5.000 kilôgam chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy hoặc từ 10.000 kilôgam đến dưới 50.000 kilôgam chất thải nguy hại khác; b) Xả thải ra môi trường từ 5.000 mét khối (m3) trên ngày đến dưới 10.000 mét khối (m3) trên ngày nước thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 05 lần đến dưới 10 lần hoặc từ 500 mét khối (m3) trên ngày đến dưới 5.000 mét khối (m3) trên ngày nước thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường 10 lần trở lên; c) Thải ra môi trường từ 300.000 mét khối (m3) trên giờ đến dưới 500.000 mét khối (m3) trên giờ khí thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 05 lần đến dưới 10 lần hoặc từ 150.000 mét khối (m3) trên giờ đến dưới 300.000 mét khối (m3) trên giờ khí thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường 10 lần trở lên; d) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường trái pháp luật chất thải rắn thông thường từ 200.000 kilôgam đến dưới 500.000 kilôgam; đ) Xả thải ra môi trường nước thải, chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất thải rắn hoặc phát tán khí thải có chứa chất phóng xạ vượt giá trị liều từ 200 milisivơ (mSv) trên năm đến dưới 400 milisivơ (mSv) trên năm hoặc giá trị suất liều từ 0,01 milisivơ (mSv) trên giờ đến dưới 0,02 milisivơ (mSv) trên giờ; e) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường trái pháp luật 5.000 kilôgam trở lên chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy hoặc 50.000 kilôgam trở lên chất thải nguy hại khác; b) Xả thải ra môi trường 10.000 mét khối (m3) trên ngày trở lên nước thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 05 lần đến dưới 10 lần hoặc 5.000 mét khối (m3) trên ngày trở lên nước thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường 10 lần trở lên; c) Thải ra môi trường 500.000 mét khối (m3) trên giờ trở lên khí thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ 05 lần đến dưới 10 lần hoặc 300.000 mét khối (m3) trên giờ trở lên khí thải có thông số môi trường nguy hại vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường 10 lần trở lên; d) Chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường trái pháp luật chất thải rắn thông thường 500.000 kilôgam trở lên; đ) Xả thải ra môi trường nước thải, chôn, lấp, đổ, thải ra môi trường chất thải rắn hoặc phát tán khí thải có chứa chất phóng xạ vượt giá trị liều 400 milisivơ (mSv) trên năm trở lên hoặc giá trị suất liều 0,02 milisivơ (mSv) trên giờ trở lên; e) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. 5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng; b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 7.000.000.000 đồng đến 12.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm; c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 12.000.000.000 đồng đến 20.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm; d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định từ 01 năm đến 03 năm. Như vậy, đối với tội gây ô nhiễm môi trường thì mức phạt tù cao nhất lên đến 07 năm. |
PV
Các tin khác

Thấp thỏm, lo âu trước sạt lở ở vùng ĐBSCL

Yên Bái: Đẩy mạnh phát triển ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Thanh Hóa: Lập đoàn kiểm tra hoạt động khai thác khoáng sản

Công ty cổ phần Dệt công nghiệp Hà Nội xả khí thải ra môi trường

Ngày 10/2: Hà Nội là thành phố ô nhiễm thứ 4 thế giới

Sở Tài nguyên và Môi trường TP Cần Thơ: Tổng kết công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường năm 2024

Hà Nội nỗ lực cải thiện chất lượng môi trường không khí và xử lý rác thải

Đắk Lắk: Bãi rác tự phát gây ô nhiễm tại xã Ea Riêng

Thanh Hóa: Khai thác khoáng sản theo hướng phát triển vững
Đọc nhiều

Vĩnh Phúc bắt quả tang một cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống đang chế biến 22 con lợn dấu hiệu xuất huyết

Trung tâm Phát triển giáo dục Việt An Vĩnh Phúc: Kiến tạo nền tảng vững chắc cho thế hệ tương lai

Quảng Hưng (Quảng Bình): Lợi dụng xây dựng nghĩa trang để khai thác khoáng sản trái phép - Thủ đoạn tinh vi gây nguy hại môi trường

TP. Hồ Chí Minh: Sức khỏe tinh thần cư dân bất ổn sau sự việc bầu Ban quản trị Chung cư Lux Garden - quận 7

Xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ tập trung nâng chất xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu

Những tháng đầu năm, Cần Thơ liên tiếp sạt lở bờ sông

Trà Vinh tiếp tục công bố tình huống khẩn cấp sụp lún, sạt lở

An Giang liên tiếp xảy ra các vụ sạt lở bờ sông, người dân nơm nớp lo sợ

Sạt lở ở Cần Thơ khiến 1 nhà dân bị sụp xuống sông

Cần Thơ: Tổng kết Dự án “Các Trung tâm Đổi mới sáng tạo xanh”

Công ty cổ phần bê tông 620 Châu Thới: Năng động, tiêu biểu trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng ngành giao thông vận tải

Hậu Giang: Tạo nền tảng cho vùng lúa chất lượng cao, thân thiện với môi trường

Thúc đẩy tín dụng cho ngành hàng nông sản chủ lực, đưa Đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh, bền vững

Gạo giảm phát thải góp phần bảo vệ môi trường và nâng tầm vị thế gạo Việt Nam

Cần Thơ thả 100 ngàn con cá giống để tái tạo nguồn lợi thủy sản

Cao Bằng: Tổ chức hội nghị tập huấn báo cáo số liệu phát thải khí nhà kính trong ngành Y tế tỉnh

Xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ tập trung nâng chất xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu

Sai phạm trong kiểm dịch sản phẩm lợn bệnh của Công ty C.P. Việt Nam

Lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu lô gạo phát thải thấp sang thị trường Nhật Bản

Vấn nạn hàng giả: Nâng chế tài xử phạt, bịt “lỗ hổng” từ khâu quản lý

Thanh Hóa: Thu giữ lượng lớn thực phẩm không rõ nguồn gốc

Trách nhiệm giữ gìn hệ sinh thái và bảo tồn Sếu đầu đỏ

Những sứ giả Sếu đầu đỏ được đưa về vườn Quốc gia Tràm Chim - Đồng Tháp

Đồng Tháp với mục tiêu phục hồi và phát triển Sếu đầu đỏ

Trò chuyện cùng những “bảo mẫu” ở Trại rắn lớn nhất miền Tây

Chuyển đổi năng lượng tái tạo: Sự cần thiết để đảm bảo môi trường sống cho tương lai

Fleet Space Technologies tìm khoáng sản cho tương lai năng lượng sạch

Dùng cát biển đã được rửa sạch để làm đường cao tốc – Tại sao không ?

Hà Nội xây dựng lộ trình chuyển đổi sử dụng xe buýt điện đạt 100% vào năm 2035
Nổi bật

Nghị quyết của Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh

Bệnh viện Quân y 121, Quân khu 9 gặp mặt các cơ quan báo chí nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam

Khách sạn Legend Valley: Giao điểm hoàn hảo giữa nghỉ dưỡng và gôn tại Hà Nam

Những tháng đầu năm, Cần Thơ liên tiếp sạt lở bờ sông

TP. Hồ Chí Minh: Trung tâm thể dục sức khỏe quốc tế đầu tiên tại Việt Nam dành riêng cho người lớn tuổi

Hơn 30 chuyên gia từ Mỹ và Anh khám từ thiện cho bệnh nhân nghèo

TTYT huyện Yên Lạc: Đẩy mạnh cải cách hành chính hướng tới sự hài lòng người bệnh

Bệnh viện C Thái Nguyên: Nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong công tác khám, chữa bệnh

Bệnh viện Lao và bệnh Phổi Thái Nguyên nỗ lực vượt mọi khó khăn trong khám và điều trị bệnh

Trung tâm Y tế thị xã Phổ Yên: Nơi người bệnh gửi gắm niềm tin

Bệnh viện A Thái Nguyên: Nỗ lực, cống hiến, vì sức khỏe nhân dân

Trung tâm y tế huyện Đồng Hỷ: Nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân

Trung tâm Y tế Chợ Đồn (Bắc Kạn): Không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh
