Việt Nam: Có tới 2/3 người trầm cảm không nhận ra và chữa trị kịp thời
SK&MT - Ngoài các bệnh lý về tim mạch, thần kinh thì nguy cơ mắc trầm cảm ngày càng tăng. Có tới 2/3 người trầm cảm không nhận ra và chữa trị kịp thời. Đây là thông tin được các chuyên gia của Viện Sức khoẻ tâm thần Quốc gia đưa ra tại hội thảo Vì ngày sức khoẻ thế giới sắp diễn ra. Số người tự sát do trầm cảm ở nước ta mỗi năm từ 36.000 - 40.000 người.
Tại hội thảo truyền thông với chủ đề “Trầm cảm - hãy cũng trò chuyện” do Viện Sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai tổ chức (chiều 4/4), TS. Nguyễn Doãn Phương, Viện trưởng Viện Sức khoẻ tâm thần cho biết con số đáng giật mình: khoảng 30% dân số Việt Nam bị rối loạn tâm thần, trong đó tỉ lệ trầm cảm chiếm 25%.
Tại Việt Nam, trong năm 2016, Viện sức khoẻ tâm thần khám và điều trị ngoại trú 18.402 lượt bệnh nhân trầm cảm (chiếm 30%), điều trị nội trú 446 lượt bệnh nhân (chiếm 13,0%). Trung bình mỗi ngày có 50 bệnh nhân đến khám và điều trị về trầm cảm. Mỗi năm, số người tự sát do trầm cảm ở nước ta từ 36.000 - 40.000 người.
Theo nghiên cứu mới nhất tại Viện sức khỏe tâm thầm năm 2016, hiện có khoảng 30% dân số có rối loạn tâm thần, trong đó tỉ lệ trầm cảm chiếm 25%. Những bệnh nhân từ 45 tuổi bị trầm cảm, có 36,5% bệnh nhân có ý tưởng hoặc hành vi tự sát. Đa số tự sát do bệnh nhân cảm thấy mình vô dụng, tội lỗi, không xứng đáng sống. Phần lớn các trường hợp trầm cảm có khuynh hướng trở thành mãn tính và tái diễn cũng như phục hồi không hoàn toàn giữa các giai đoạn.
Ngoài ra, ông cũng cho biết thêm trầm cảm là 1 rối loạn phổ biến trên thế giới. Tỉ Tỷ lệ mắc trầm cảm giữa các nước, các khu vực trên thế giới có sự khác nhau, từ 3% ở Nhật Bản cho đến 17% ở Mỹ.
Vào năm 2014 ở nước Mỹ, có khoảng 17.6 nghìn người bị trầm cảm mỗi năm, nhưng có tới hơn 2/3 người bị trầm cảm không nhận ra mình có bệnh và không được điều trị. Chỉ có khoảng 20% những bệnh nhân này được điều trị đúng chuyên khoa và đúng phác đồ.
Điều đáng lo ngại những ngưỡi mắc trầm cảm có ý định tự sát chiếm 48% và những người trước đó có ý định tự sát nhưng không nhận được sự hỗ trợ điều trị trước đó chiếm 24%.
Một nữ sinh viên 21 tuổi, sinh viên năm cuối của một trường đại học có tính cách vui vẻ, hòa đồng. Sau khi chia tay người yêu cùng với áp lực ở trường Đại học, bệnh nhân rơi vào tình trạng chán ăn, gầy sút, hay ngồi khóc, cáu gắt, giận giữ nhiều lần nói với mẹ là không muốn sống nữa, muốn chết để không phải đau khổ như hiện tại. Tại viện Sức khỏe tâm thần, các bác sĩ xác định cô bị trầm cảm nặng.
Đáng lưu ý, bệnh trầm cảm ở nước ta ngày càng xảy ra ở nhiều đối tượng, phổ biến nhất là 18-45 tuổi, phụ nữ nhiều hơn nam giới. Hội chứng này gặp tỷ lệ cao ở những người ly thân, ly dị, thất nghiệp. Nguy cơ mắc trầm cảm cũng tăng với các bệnh lý thần kinh, tim mạch kèm theo như đột quỵ, Parkinson...
Theo TS. Nguyễn Doãn Phương dấu hiệu nhận biết của bệnh trầm cảm đó là người bệnh có cảm giác buồn chán, trống rỗng, khó tập trung suy nghĩ, hay quên, luôn cảm giác mệt mỏi, không muốn làm việc gì, cảm giác mình có tội lỗi, vô dụng, không xứng đáng, mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều, hay cáu gắt, giận dữ, giảm thích thú trong các hoạt động hoặc sở thích hàng ngày, giảm cảm giác ngon miệng, sụt cân hoặc ăn quá nhiều, nghĩ về cái chết, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát.
Nguyên nhân của bệnh trầm cảm thường xảy ra ở những đối tượng như: li dị, sống độc thân, thiếu sự hỗ trợ chăm sóc từ xã hội, cộng đồng, tiền sử gia đình có người bị trầm cảm, lạm dụng rượu và các chất ma túy, thay đổi môi trường sống, thay đổi công việc, thất nghiệp, hoặc có các bệnh cơ thể mạn tính, bị lạm dụng thể chất, lạm dụng tình dục, xung đột cá nhân trong các mối quan hệ... Đặc biệt ở phụ nữ, có nguy cơ mắc trầm cảm nhiều hơn nam giới 2 lần. Do sự thay đổi hormone ở lứa tuổi dậy thì, trong chu kỳ kinh nguyệt, giai đoạn mang thai, bị sảy thai, giai đoạn mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ trầm cảm.
Các bác sỹ của Viện sức khỏe tâm thần lưu ý trầm cảm là một rối loạn rất phổ biến trong dân số, nhưng chỉ có tỉ lệ thấp được phát hiện và điều trị theo đúng chuyên khoa. Tuy nhiên rối loạn trầm cảm có thể chữa được để BN ổn định và tái hòa nhập với xã hội nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời với sự hợp tác tốt của người bệnh, gia đình và cộng đồng để bệnh nhân tuân thủ điều trị.
Hoàng Sinh