Chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân ung thư
Theo thống kê, con số 30% bệnh nhân ung thư chết vì suy kiệt cơ thể trước khi chết vì khối ung thư đã phần nào cho thấy tác động xấu của tình trạng sút cân, suy kiệt. Dinh dưỡng lúc này có tác dụng nâng đỡ để người bệnh có đủ sức theo được hết các liệu pháp điều trị nặng nề.
Việc xây dựng một chế độ dinh dưỡng hợp lý trước, trong và sau quá trình điều trị đều nhằm đến mục tiêu là tăng cường thể lực cho bệnh nhân. Ăn đúng trước, trong và sau khi điều trị có thể giúp cho bệnh nhân giảm thiểu được những bất lợi do các tác dụng phụ của phương pháp điều trị và giúp bệnh nhân có cảm giác sống khoẻ hơn. Vì vậy, để đảm bảo dinh dưỡng hợp lý, người bệnh cần phải ăn uống đầy đủ thực phẩm đảm bảo các nhóm chất: đạm - bột đường - béo - vitamin, khoáng chất - nước.
Thực phẩm giàu chất xơ tốt cho bệnh ung thư
Khẩu phần ăn có 80% rau xanh và nước ép, ngũ cốc, hạt và chút trái cây sẽ giúp cơ thể sản sinh nhiều kiềm, hạn chế sự sản sinh của tế bào ung thư.
Đây là những loại thực phẩm ít chất béo, giàu chất xơ và sinh tố, đặc biệt là sinh tố A và C. Sinh tố A giúp nâng cao khả năng thích nghi của cơ thể đối với chất gây ung thư; sinh tố C có khả năng ngăn chặn tế bào ung thư phát sinh, phát triển. Sinh tố A có nhiều trong sữa bò, sữa dê, lòng đỏ trứng gà, gan động vật, cà rốt, ớt, rau dền, ngô, quả hồng... Sinh tố C có nhiều trong cam, chanh, bưởi, sơ-ri, cà chua...
Rau xanh, trái cây tươi giúp bảo vệ hệ miễn dịch của cơ thể. Những loại rau-củ-quả xanh, tươi có lợi cho người bệnh lúc này là: bắp cải, rau ngót, rau đay, cần tây, giá đậu xanh, súp lơ, cà tím, cà chua, dưa leo, đu đủ, khoai lang, nghệ, cam, bưởi và cả chanh, gấc...
Ngoài ra, còn có một số thực phẩm có tác dụng ức chế ung thư như: bắp cải, súp lơ, và các loại nấm có tính kháng ung thư nấm hương, nấm rơm, nấm mỡ; tỏi, củ cải trắng, rau nhút...
Bổ sung Vitamin và khoáng chất
Vitamin và khoáng chất cho phép cơ thể sử dụng năng lượng có trong thức ăn. Nhưng một lượng lớn vitamin và khoáng chất cũng có thể làm giảm tác dụng của hoá trị liệu hoặc xạ trị liệu.
Chẳng hạn, vitamin A có vai trò quan trọng trong việc bảo dưỡng các mô, giúp phục hồi nhanh các thương tổn, gia tăng khả năng miễn dịch. Nó cũng ngăn ngừa tác hại của các chất tiết từ khối u và của các phương pháp trị liệu (chẳng hạn giảm tình trạng viêm da, rụng tóc, viêm gai lưỡi), làm chậm thời gian di căn. Các nghiên cứu cũng cho thấy, đối với bệnh ung thư, vitamin A thực thụ (Retinol) có tác dụng tốt hơn hẳn so với tiền chất vitamin A (beta-caroten). Loại ung thư đáp ứng tốt nhất loại dưỡng chất này là ung thư vùng đầu mặt cổ.
Các chất chống oxy hóa như vitamin C, vitamin E, kẽm, folate và một số vitamin khác (vitamin D, K, B6, B12) cũng được khuyến cáo gia tăng trong khẩu phần của bệnh nhân ung thư. Chúng là những yếu tố hỗ trợ khả năng miễn dịch của cơ thể, tăng khả năng phục hồi tổn thương, làm giảm tác dụng phụ của việc điều trị. Chất chống oxy hoá là chất giúp bảo vệ tế bào cơ thể khỏi bị huỷ hoại do các gốc tự do gây ra. Các chuyên gia sức khoẻ gợi ý là nên ăn nhiều rau và hoa quả vì rau và hoa quả là nguồn cung cấp chất chống oxy hoá dồi dào.
Bổ sung thức ăn, dưỡng chất
Calo là thành phần thiết yếu đối với cơ thể của những người khỏe mạnh và đặc biệt càng cần thiết hơn bao giờ hết đối với bệnh nhân mắc ung thư. Chính vì thế, cần quan tâm hàng đầu tới việc bổ sung calo.
Khẩu phần cần tăng protein so với bình thường. Để đảm bảo cung cấp đủ các loại acid amin cần ăn đa dạng các loại thực phẩm, khẩu phần ăn phải cân đối giữa protein động vật và thực vật. Thịt cung cấp cho cơ thể các loại acid amin thiết yếu nhưng khẩu phần ăn chứa nhiều thịt cung cấp nhiều axit thuận lợi cho sự phát triển của các tế bào ung thư. Vì vậy các loại thịt màu trắng như thịt gia cầm sẽ có lợi hơn cho sức khoẻ. Cơ thể cũng cần bổ sung thêm các nguồn sắt, kẽm...từ các loại thịt có màu đỏ như thịt lợn nạc, thịt bò... Các loại tôm, cua, cá, nhuyễn thể và hải sản cũng là nguồn cung cấp các acid amin và vi chất dinh dưỡng quý giá cho cơ thể.
Chất béo (Lipid) là chất cho giá trị năng lượng cao, giúp hình thành cấu trúc tế bào cơ thể. Nhưng một chế độ ăn có nhiều chất béo sẽ làm tăng nguy cơ bị ung thư ruột già, tiền liệt tuyến, ung thư nội mạc tử cung và ung thư vú. Giảm lượng chất béo bằng cách ăn thịt, cá nạc, hạn chế ăn da gà, vịt, uống sữa có chứa ít chất béo, chọn các món hấp luộc thay vì chiên xào. Nên thay mỡ động vật bằng dầu thực vật nhưng cũng nên hạn chế càng ít càng tốt. Tránh ăn nhiều bánh, kẹo mứt, chocolate.
Ngoài ra cũng không nên lãng quên các chất béo có lợi cho sức khỏe như omega – 3 (có nhiều trong cá). Trứng cũng là nguồn cung cấp protein tốt cho bệnh nhân ung thư.
Nên chọn các loại ngũ cốc nguyên hạt (gạo, ngô, lúa mì, hạt lúa mạch), các loại củ (khoai tây, khoai lang, khoai sọ, sắn...).
Tránh các loại thực phẩm chế biến sẵn chứa đường đơn, gây nhiều tác hại cho cơ thể, đồng thời các chất phụ gia cho thêm vào thực phẩm trong quá trình chế biến và bảo quản cũng là một trong những nhân tố góp phần làm tăng tỉ lệ bệnh ung thư.
Vấn đề uống nước cũng là vấn đề thường gặp. Người bệnh thường ngại uống nước. Nhưng với bệnh nhân ung thư, lời khuyên là nên uống 8-12 ly nước mỗi ngày. Nước ở đây có thể là nước chín, nước ép rau, quả, sữa hoặc những thực phẩm có chứa nhiều nước... Điều quan trọng là uống nước ngay cả những lúc không khát, hạn chế những thức uống chứa cafein...
Trên đây là một số thực phẩm tốt dành cho bệnh nhân ung thư, một chế độ ăn nhiều cá, rau, ít thịt, thêm dầu thực vật, uống nhiều nước và vận động, tập thể dục thể thao....sẽ giúp cơ thể đủ chất dinh dưỡng và sức khoẻ để chống lại ung thư chứ không phải là "cung cấp thêm chất đạm cho khối u" như nhiều người vẫn lầm tưởng. Hơn thế nữa, nên chiều theo khẩu vị của người bệnh, chia nhỏ các bữa ăn để người bệnh dễ hấp thụ dưỡng chất. Người nhà cũng nên khuyên người bệnh chịu khó vận động, ít nằm một chỗ để cơ thể được thoải mái, đầu óc được thư giãn, tránh suy nghĩ quá sẽ giúp cho việc điều trị đạt kết quả cao hơn.
Sông Hồng