Công nghệ nano xử lý rác nhựa trong đại dương
Hàng năm có khoảng 14 triệu tấn nhựa được thải ra biển, trong đó 40% là nhựa dùng một lần. Theo nghiên cứu năm 2015, có khoảng 15-51 nghìn tỷ hạt vi nhựa dưới biển, nặng 261.000 tấn
Giải pháp tối ưu nhất là hạn chế sản xuất các sản phẩm từ nhựa cũng như không xả rác thải nhựa ra biển. Cùng với đó, các nhà khoa học đang tích cực nghiên cứu những phương pháp mới để dọn sạch nhựa và vi nhựa có trong đại dương.
Rác thải nhựa.
Theo nghiên cứu đăng trên tạp chí Matter hôm 31/7, nhà khoa học Xiaoguang Duan đã cùng các đồng nghiệp tìm ra phương pháp mới để phân hủy rác thải nhựa. Theo đó, phần lớn nhựa không phân hủy hoàn toàn mà chỉ vỡ thành những mẩu nhỏ hơn gọi là hạt vi nhựa, đường kính dưới 5 mm. Vi nhựa đã được tìm thấy ở mọi nơi trên thế giới, từ điểm sâu nhất của rãnh Mariana (rãnh đại dương sâu nhất từng được biết đến, gần 11.000m, nằm ở khu vực tây bắc Thái Bình Dương, về phía đông quần đảo Mariana) cho tới đỉnh Pyrenees của Pháp.
Một công bố mới đây trên tạp chí Matter cho thấy, các nhà khoa học đến từ Đại học Adelaide, Australia nghiên cứu chế tạo ống cuộn nano (công nghệ nano dùng để chỉ những thứ nhỏ hơn một phần tỷ mét, hay nửa chiều rộng của sợi tóc người) từ carbon với hình dạng gần giống lò xo, được phủ nitơ và mangan. Hai thành phần này tương tác với cuộn nano để tạo ra những phân tử oxy hoạt động hóa học mạnh, tấn công hạt vi nhựa. Quá trình này biến nhựa thành hỗn hợp muối, CO2 và nước.
Lò xo nano có thể biến nhựa thành hỗn hợp muối, CO2 và nước
Nhóm nghiên cứu nhận thấy, thả lò xo nano vào các mẫu nước chứa hạt vi nhựa, Duan cùng đồng nghiệp nhận thấy lượng vi nhựa giảm 30-50% trong 8 tiếng. Nhóm nghiên cứu cũng dễ dàng lấy lò xo ra khỏi nước bằng nam châm để sử dụng cho những lần sau.
Đây có thể coi là biện pháp khả thi để giải quyết một vấn đề toàn cầu. Trong thời gian tới, các nhà khoa học cho biết sẽ tiến hành các thử nghiệm tiếp theo trước khi công nghệ này có thể sẵn sàng sử dụng trong các nhà máy xử lý nước thải hoặc đại dương. Đây cũng là mục tiêu dài hạn của nhóm nghiên cứu.
Hương Lan (T/h)