Nữ giới trong quản trị khí hậu tại Việt Nam: Vai trò và giải pháp
Vai trò của nữ giới trong thiết kế và triển khai các chính sách về biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình thiết kế và triển khai các chính sách ứng phó với BĐKH, đặc biệt trong thích ứng và giảm thiểu rủi ro thiên tai. Tùy thuộc vào cách tiếp cận, vai trò của họ được ghi nhận ở nhiều mức độ khác nhau. Vai trò của phụ nữ trong thúc đẩy chính sách khí hậu và quản trị khí hậu tại Việt Nam từ ba góc độ chính:
Thứ nhất, vai trò của phụ nữ trong hoạch định chính sách khí hậu ở cấp quốc gia.
Ở cấp quốc gia, sự hiện diện và tiếng nói của phụ nữ trong các tổ chức phi Chính phủ (NGOs), nhóm vận động chính sách và cơ quan Chính phủ mang lại góc nhìn đa chiều và bao trùm hơn trong quá trình hoạch định chính sách BĐKH.
Tại Việt Nam, các NGOs đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy các giải pháp phát triển bền vững, đặc biệt trong lĩnh vực bình đẳng giới và ứng phó BĐKH. Trong số NGOs đang hoạt động, phụ nữ thường là những người đi đầu trong triển khai các dự án và chương trình liên quan đến BĐKH. Họ có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn trong quản lý tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ rủi ro thiên tai.
Sự tham gia của phụ nữ không chỉ giới hạn ở NGOs mà còn mở rộng trong các cơ quan Nhà nước. Tiếng nói của họ đã góp phần quan trọng trong hoạch định chính sách quốc gia nói chung và chính sách BĐKH nói riêng. Sự hiện diện của phụ nữ đảm bảo rằng các chính sách phản ánh đầy đủ nhu cầu và ưu tiên của các nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái. Khi phụ nữ tham gia vào quá trình ra quyết định, các chính sách BĐKH thường toàn diện hơn, chú trọng đến các giải pháp dựa vào cộng đồng và lồng ghép vấn đề giới.
Phụ nữ cũng đóng vai trò quan trọng trong vận động chính sách và thúc đẩy sự thay đổi từ bên trong các tổ chức của Chính phủ. Nhiều phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo đã chủ động thúc đẩy các chính sách về năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí nhà kính và hỗ trợ các cộng đồng dễ bị tổn thương trước BĐKH.
![]() |
| Phụ nữ khởi nghiệp từ thích ứng biến đổi khí hậu |
Thứ hai, vai trò của phụ nữ trong quản lý tài nguyên và canh tác bền vững ở cấp địa phương
Theo thống kê, phụ nữ chiếm khoảng 80% lực lượng lao động nông nghiệp tại khu vực nông thôn, nơi họ thường xuyên tiếp xúc và quản lý các nguồn tài nguyên như nước, đất và rừng. Những kinh nghiệm thực tiễn giúp họ đóng góp ý kiến thiết thực cho các chính sách quản lý tài nguyên bền vững. Tận dụng kiến thức bản địa, năng lực và kỹ năng của các nhóm phụ nữ để ứng phó và giảm nhẹ các tác động của BĐKH là điều vô cùng cần thiết.
Tuy nhiên, để phát huy tối đa tiềm năng của phụ nữ trong quản lý tài nguyên thiên nhiên, cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể. Việc tăng cường tiếp cận giáo dục và đào tạo cho phụ nữ, cũng như đảm bảo sự tham gia của họ trong các quyết định chính sách, là yếu tố then chốt để thúc đẩy quản lý tài nguyên bền vững.
Thứ ba, vai trò của phụ nữ trong giáo dục, truyền thông và thực hiện chính sách BĐKH
Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, truyền thông và tổ chức thực hiện chính sách BĐKH trong phạm vi gia đình và cộng đồng. Họ thường là người chủ chốt trong việc giáo dục con cái và các thành viên trong gia đình về các vấn đề môi trường và BĐKH. Họ có khả năng truyền đạt kiến thức một cách dễ hiểu và thực tế, giúp các thành viên trong gia đình hiểu rõ hơn về tác động của biến đổi khí hậu và cách ứng phó hiệu quả. Bằng cách nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi, họ tạo ra sự đồng thuận và hỗ trợ cho các chính sách bền vững.
Phụ nữ cũng tích cực tham gia các chương trình giáo dục cộng đồng, chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức về canh tác bền vững, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và ứng phó với thiên tai. Ngoài ra, phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong các chiến dịch truyền thông, như “Giờ Trái Đất” và “Ngày Môi trường Thế giới”, nhằm thúc đẩy hành động bảo vệ môi trường.
Không chỉ hưởng ứng, phụ nữ còn là người khởi xướng các chiến dịch truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề môi trường. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là một ví dụ điển hình, với các hoạt động như tuyên truyền, vận động, nâng cao năng lực cho hội viên về thích ứng với BĐKH, triển khai các sáng kiến ứng phó và xây dựng mô hình sinh kế bền vững.
Những cơ hội và rào cản đối với phụ nữ trong quá trình thúc đẩy chính sách về biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Phụ nữ Việt Nam có nhiều thế mạnh để tham gia sâu hơn vào quá trình thiết kế và thực thi chính sách BĐKH. Họ sở hữu kiến thức địa phương sâu sắc về thực trạng và nhu cầu của cộng đồng, giúp họ đóng góp ý kiến thiết thực cho các chính sách quản lý tài nguyên bền vững. Vai trò lãnh đạo của phụ nữ cũng thúc đẩy các giải pháp toàn diện và công bằng hơn trong hoạch định chính sách. Trong bối cảnh mới, Việt Nam có thể tận dụng các nguồn lực và kinh nghiệm quốc tế để hỗ trợ phụ nữ trong quản trị khí hậu, từ đó dẫn đến các chính sách bền vững và công bằng hơn.
Cơ hội cho phụ nữ trong thúc đẩy chính sách BĐKH
Phụ nữ có hiểu biết sâu sắc về tác động của BĐKH đối với cộng đồng, đặc biệt trong các lĩnh vực như quản lý tài nguyên thiên nhiên, nông nghiệp và ứng phó với thiên tai.
Hiện nay, nhiều phụ nữ đang giữ các vị trí quan trọng trong NGOs, cơ quan chính phủ và các tổ chức quốc tế, góp phần thúc đẩy các chính sách khí hậu toàn diện và công bằng.
Việt Nam có thể tận dụng các nguồn lực và kinh nghiệm quốc tế để nâng cao năng lực và vai trò của phụ nữ trong quản trị khí hậu.
Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ xanh và trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững mà còn là cơ hội quan trọng giúp phụ nữ tham gia hiệu quả hơn vào quá trình xây dựng và thực hiện chính sách.
Rào cản đối với phụ nữ trong thúc đẩy chính sách BĐKH
Phụ nữ thường bị hạn chế trong cơ hội thăng tiến và ra quyết định do các định kiến về vai trò của họ trong xã hội. Những giá trị và thông lệ từ quan niệm Nho giáo, vốn đề cao vai trò nam giới trong các công việc xã hội và ra quyết định vĩ mô, vẫn còn tồn tại. Trong khi đó, phụ nữ thường được “mặc định” với vai trò “xây tổ ấm”, chịu trách nhiệm chính trong các công việc nội trợ và chăm sóc gia đình.
Theo một khảo sát, gần 50% phụ nữ Việt Nam cho biết họ phải làm việc nhà vì không ai làm và phụ nữ trung bình dành số giờ gấp đôi nam giới cho công việc gia đình. Gánh nặng này hạn chế cơ hội tham gia của phụ nữ vào quá trình ra quyết định, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến BĐKH.
Mặc dù nhiều văn bản pháp luật đã đề cập đến lồng ghép giới trong thích ứng với BĐKH, việc thiếu các hướng dẫn thực hiện cụ thể đã làm giảm hiệu quả của các chính sách này. Bên cạnh đó, các nghiên cứu và đánh giá về tác động của BĐKH đến an sinh xã hội và bình đẳng giới còn hạn chế, dẫn đến sự thiếu hiểu biết về những khó khăn mà phụ nữ phải đối mặt. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhiều văn bản pháp luật đã đề cập đến lồng ghép giới trong thích ứng với BĐKH nhưng còn thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Phụ nữ thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực tài chính và đào tạo chuyên sâu về công nghệ xanh, điều này làm giảm khả năng tham gia hiệu quả vào các hoạt động ứng phó BĐKH.
![]() |
Những khuyến nghị về giải pháp
Để phát huy tối đa tiềm năng của phụ nữ trong quản trị khí hậu, cần thực hiện các giải pháp toàn diện, bao gồm các khía cạnh chính sách, xã hội và nhận thức.
Về chính sách: Ưu tiên đào tạo và tuyển dụng phụ nữ trong lĩnh vực việc làm xanh. Cần có chính sách ưu tiên cho phụ nữ trong đào tạo, tuyển dụng và cơ cấu việc làm xanh, đặc biệt trong các lĩnh vực giúp giảm thiểu phát thải khí nhà kính và thích ứng với BĐKH; lồng ghép giới trong quản trị khí hậu. Cần thiết kế và thực hiện các chính sách khí hậu một cách công bằng, đáp ứng nhu cầu của cả phụ nữ và nam giới; tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong hoạch định và thực thi chính sách. Đảm bảo tiếng nói của phụ nữ được lắng nghe và tôn trọng thông qua việc gia tăng hạn ngạch tỷ lệ phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo và quá trình ra quyết định; xây dựng mạng lưới chuyên gia về giới và BĐKH. Thành lập mạng lưới các chuyên gia từ khu vực nhà nước và các nhà vận động chính sách làm việc trong lĩnh vực bình đẳng giới và BĐKH, bao gồm Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các bộ, ngành trong nước, các NGOs tại Việt Nam, cơ quan hợp tác quốc tế của chính phủ các nước.
Về xã hội: Xóa bỏ định kiến giới và nâng cao nhận thức cộng đồng. Cần xóa bỏ các định kiến về giới và nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò của phụ nữ trong ứng phó với BĐKH; cung cấp kiến thức, kỹ năng và nguồn lực cho phụ nữ. Đảm bảo họ được trang bị các kiến thức, kỹ năng và nguồn lực cần thiết để tham gia hiệu quả vào các hoạt động quản trị khí hậu; hỗ trợ cân bằng giữa công việc gia đình và xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ có thể cân bằng giữa công việc gia đình và xã hội, từ đó tăng cường sự tham gia của họ trong các hoạt động quản trị khí hậu.
Về nhận thức: Cần nâng cao nhận thức và năng lực về các khía cạnh bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ trong quá trình ứng phó với BĐKH, sử dụng phương pháp tiếp cận từ dưới lên và từ trên xuống; thường xuyên tổ chức các khóa học nâng cao nhận thức cho phụ nữ về vai trò và trách nhiệm của họ trong ứng phó với BĐKH.
BĐKH đã trở thành một thách thức toàn cầu đòi hỏi sự tham gia tích cực của mọi thành phần xã hội, trong đó phụ nữ đóng vai trò không thể thiếu. Tại Việt Nam, phụ nữ không chỉ là những người chịu tác động nặng nề nhất từ BĐKH mà còn là những tác nhân quan trọng trong việc thiết kế, triển khai và thực hiện các chính sách ứng phó. Sự tham gia của phụ nữ ở các cấp độ, từ quốc gia đến địa phương, mang lại các giải pháp toàn diện, công bằng và bền vững hơn.
Tuy nhiên, phụ nữ vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản, bao gồm định kiến giới, gánh nặng công việc gia đình, thiếu cơ chế hỗ trợ và hạn chế tiếp cận nguồn lực. Cần ưu tiên đào tạo và tuyển dụng phụ nữ trong lĩnh vực việc làm xanh, lồng ghép giới trong quản trị khí hậu, tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong hoạch định và thực thi chính sách. Đồng thời, xóa bỏ định kiến giới, cung cấp kiến thức và nguồn lực cần thiết cho phụ nữ và tạo điều kiện để họ cân bằng giữa công việc gia đình và xã hội.
Những nỗ lực này không chỉ thúc đẩy quyền bình đẳng của phụ nữ mà còn góp phần xây dựng các chính sách khí hậu hiệu quả và bền vững, đáp ứng yêu cầu của bối cảnh Việt Nam và các cam kết quốc tế. Sự tham gia tích cực của phụ nữ sẽ là yếu tố then chốt giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó thành công với BĐKH.
| Tài liệu tham khảo
|
Các tin khác
Đắk Lắk yêu cầu phòng ngừa, ứng phó bão số 15 ở mức cao nhất
Đề nghị giảm công suất hoạt động sản xuất gây ô nhiễm không khí
Bão số 15 giảm cấp và suy yếu dần, gió mạnh vẫn gây nguy hiểm trên biển
Phòng, chống bão số 15: Duy trì kịch bản ứng phó với rủi ro thiên tai cấp độ 4, nhất là ở vùng miền núi
Dự báo bão số 15 sẽ tăng thêm 2 cấp trong vòng 24 giờ tới
10 ngày tới Hà Nội và các tỉnh lân cận nguy cơ ô nhiễm không khí ở mức cao
Tăng trưởng xanh từ nông nghiệp tuần hoàn và công nghệ số
Thanh Hóa: Sẽ đóng cửa bãi rác khổng lồ ở Sầm Sơn
Hợp lực để nâng sức chống chịu cho nông nghiệp ĐBSCL và Nam Trung Bộ
Đọc nhiều
Chiếc thẻ và cơn gió ngược của nghề báo
Khi Bí thư xã làm “Đại sứ OCOP” ở xã Tân Hòa, TP. Cần Thơ
Khẩn trương triển khai dự án Nhà máy điện mặt trời Sao Mai 1 tại Cần Thơ
Tự xưng "Phòng khám Thẩm mỹ Nội khoa", DMANH Beauty bị Sở Y tế Hà Nội “chỉ mặt” hoạt động không phép
Phú Thọ: Công ty xử lý môi trường bị xử phạt hơn 172 triệu đồng vì gây ô nhiễm môi trường
Videos
E-magazine Inforgraphic Video
Xã Ô Diên – Hà Nội: Bất cập từ bãi vật liệu xây dựng gây ô nhiễm môi trường và trách nhiệm quản lý tại địa bàn cơ sở
Cảnh báo hành vi giả danh cán bộ thuế, cơ quan thuế để lừa đảo
Phòng ngừa cháy nổ trong dịp Tết Nguyên đán
Bản tin tổng hợp số 8 tháng 11 của Tạp chí Sức khoẻ & Môi trường
Hà Nội (Q.Hà Đông) : Môi trường sống của người dân không được đảm bảo bởi những công trình vi phạm TTXD
Giải pháp giảm thiểu đốt ngoài trời, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp - Cơ hội từ GAHP
Ngành Thép hướng tới tiêu hao nguyên liệu thấp
Chính thức thông cầu phao tạm thay thế cầu Phong Châu (Phú Thọ)
Cách xử lý vệ sinh môi trường sau mùa bão lụt
Sự cố 100 can axit sunfuric bị lũ cuốn trôi tại Đắk Lắk: Chuyên gia khuyến cáo
Nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp an toàn – hướng đi bền vững cho Tây Nguyên
Cần Thơ ghi nhận 41 vụ sạt lở trong 7 tháng đầu năm, thiệt hại trên 9 tỷ đồng
Cần một cuộc “tổng rà soát” toàn diện
Đổi mới sáng tạo là “chìa khóa” mở rộng giá trị ngành tôm Việt Nam
Cần Thơ: Tổng kết Dự án “Các Trung tâm Đổi mới sáng tạo xanh”
Công ty cổ phần bê tông 620 Châu Thới: Năng động, tiêu biểu trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng ngành giao thông vận tải
Hậu Giang: Tạo nền tảng cho vùng lúa chất lượng cao, thân thiện với môi trường
Nông dân miền Tây thôi đốt rơm rạ
Khởi công dự án chống ngập úng KĐT Nam Thăng Long- Bước tiến vì môi trường sống an toàn xanh sạch cho người dân
Tăng trưởng xanh từ nông nghiệp tuần hoàn và công nghệ số
Hợp lực để nâng sức chống chịu cho nông nghiệp ĐBSCL và Nam Trung Bộ
Xiên nướng vỉa hè: Mối nguy từ ẩm thực đường phố
Chi cục An toàn thực phẩm (ATTP) tỉnh Phú Thọ: Tập huấn công tác ATTP cho hơn 200 học viên
Vụ sản xuất hàng giả thực phẩm tại Nghệ An: Khởi tố giám đốc Công ty An Thịnh Food
Hà Nội: Kiểm tra đột xuất các đơn vị cung cấp nguyên liệu, suất ăn phục vụ bán trú
Jane Goodall – Nhà linh trưởng học khơi dậy lòng trắc ẩn với môi trường
Đắk Lắk: 12 cá thể động vật hoang dã quý hiếm được tái thả về với đại ngàn Tây Nguyên
Trách nhiệm giữ gìn hệ sinh thái và bảo tồn Sếu đầu đỏ
Những sứ giả Sếu đầu đỏ được đưa về vườn Quốc gia Tràm Chim - Đồng Tháp
Đồng bộ khung pháp lý để hiện thực hóa chuyển dịch năng lượng
Khẩn trương triển khai dự án Nhà máy điện mặt trời Sao Mai 1 tại Cần Thơ
Giải bài toán phát triển điện sạch

